Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đền Am thuộc thôn Nhất, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định mang một giá trị tinh thần không thể thiếu của người dân địa phương. Hãy nghe Nguyễn Thị Phượng một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Đền Am, Thôn Nhất, thị trấn Nam Giang, Nam Trực, Nam Định là nơi thờ tự và tri ân công đức của nhân dân trong làng với Đức Thánh tổ, thiền sư Bùi Huệ Tộ. Theo các nguồn ghi chép lịch sử, thiền sư Bùi Huệ Tộ đã có công xây dựng 18 ngôi chùa trong và ngoài huyện Nam Trực. Ở mỗi nơi khi đến xây chùa, Ngài đều quan tâm giúp đỡ những người nghèo, giúp cho nhân dân có cuộc sống ấm no. Thiền sư đã giành nhiều tâm huyết để vận động nhân dân địa phương và nhân dân thập phương sửa sang chùa cảnh; bỏ tiền để mua ruộng, giúp họ làm ăn, sinh sống tốt hơn. Trong quá trình tu hành, tìm hiểu đạo pháp, thiền sư Bùi Huệ Tộ đã phát triển tác phẩm “Khóa hư lục” của Vua Trần Thái Tông thành “Kế hư lục” với trên 40 chương nhằm tuyên truyền những tư tưởng tích cực của đạo Phật về tính thống nhất, độc lập của Phật giáo Việt Nam.
( ảnh sưu tầm)
Tín ngưỡng thờ tự Đức Thánh tổ Bùi Huệ Tộ tại đền Am mang ý nghĩa thờ tự một vị chân tu, một vị phúc thần vì hạnh phúc ấm no của nhân nhân. Sau khi Đức Thánh tổ “hỏa trung hóa Phật”, nhân dân thôn Giáp nhất đã lập đền thờ phụng để đời đời ghi nhớ công đức của Ngài. Ngôi đền được xây dựng ngay trên nền đất thảo am mà trước đây Đức Thánh tổ đã tạo dựng.
Đền Am được xây dựng trên khu đất rộng gần 3000m2, quay mặt về hướng Tây Nam. Xung quanh đền có nhiều cây lâu năm tạo không khí mát mẻ, tôn nghiêm mà lại rất ấm cúng. Di tích đền Am bao gồm kiến trúc như: hồ nước, cổng, nghi môn, sân, nhà khách, công trình đền chính và hai dãy giải vũ môn. Đền có kiến trúc cổ kính, mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVII-XVIII.
( ảnh tự chụp)
Ngày mồng 9, mồng 10 tháng Giêng (âm lịch), là ngày sinh, đồng thời cũng là ngày hóa của Đức Thánh tổ, Thiền sư Bùi Huệ Tộ, nhân dân thôn Giáp Nhất mở lễ hội lớn để khai xuân. Những hoạt động diễn ra trong khuôn khổ lễ hội mang đậm nét văn hóa dân gian của vùng đồng bằng sông Hồng. Ngoài nghi thức tế lễ, rước hội, còn có nhiều hoạt động văn hóa, dân gian và nghệ thuật thể dục thể thao, các trò chơi dân gian như đánh cờ, tổ tôm điếm, đánh đu, hát chèo, hát văn, bóng đá, thi văn nghệ, và đặc biệt là biểu diễn múa rối nước. Chính vì những nét đặc sắc đó, lễ hội không những thu hút cả cộng đồng dân trong làng mà còn thu hút rất nhiều khách thập phương.
( ảnh tự chụp)
Một điều đặc biệt về tín ngưỡng văn hóa ở làng Giáp Nhất, đã được mở rộng và nổi tiếng khắp bốn phương và dần dần trở thành tín ngưỡng của nhân dân thập phương, mỗi khi xuân về mọi người dân sẽ gieo quẻ đầu năm ở đền Am và sẽ đi tán quẻ thẻ. Quẻ thẻ sẽ ứng với từng người, từng gia đình, ngay cả khi 2 người gieo được cùng một số quẻ thẻ nhưng kết quả tán thẻ cũng chưa mấy đã giống nhau. Quẻ thẻ sẽ bao quát vận hạn trong cả 1 năm và nêu ra những điều chúng ta cần tránh để có một năm tốt nhất. Hay kể cả khi gia chủ muốn mua đất, mua nhà, hay gặp một điều khó giải quyết, người dân nơi đây cũng đến đền Am để lễ và xin thẻ để Ngài có thể chỉ lối. Xin quẻ thẻ ở Đền Am đã trở thành một nét văn hóa tinh thần không thể thiếu của người dân làng Giáp Nhất và quý khách thập phương.
Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ thuật, ngày 14 tháng 12 năm 2012 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Quyết định số 4898/QĐ-BVHTTDL xếp hạng Đền Am, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là di tích cấp quốc gia. Mong rằng với bài viết này 63 Stravel sẽ đem lại cho tất cả mọi người thêm những kiến thức về văn hóa, dân tộc đặc biệt là ở vùng quê Nam Định
Di tích kiến trúc nghệ thuật Phủ Dầy (gồm: Phủ Tiên Hương, Phủ Vân Cát, Lăng Mẫu Liễu Hạnh) tọa lạc trên địa bàn hai thôn Tiên Hương và Vân Cát thuộc xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, cách trung trung tâm thành phố Nam Định khoảng 15km về hướng Tây Nam. Đây là di tích có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và kiến trúc nghệ thuật đã được Bộ Văn hóa xếp hạng quốc gia theo quyết định số 09-VH/QĐ ngày 21 tháng 02 năm 1975. Phủ Dầy thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh là vị thần đứng đầu trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu (Tam phủ, Tứ phủ) của người Việt, đồng thời cũng là một trong “Tứ bất tử” của thần điện Việt Nam. Bà được các triều đại phong kiến từ thời Lê đến thời Nguyễn ban tặng nhiều sắc phong tôn làm “Mẫu nghi thiên hạ” (Mẹ của muôn dân) với các duệ hiệu: Mã Vàng Bồ tát, Chế Thắng Hòa Diệu đại vương. Hầu hết các làng xã và đô thị ở nước ta đều có đền, chùa, phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh rất tôn nghiêm. Trong đó, di tích Phủ Dầy từ lâu đã được coi là trung tâm tín ngưỡng thờ Mẫu (Tam phủ, Tứ phủ) của người Việt. Căn cứ vào sử sách và các công trình nghiên cứu khoa học cùng truyền thuyết dân gian về sự tích của Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì di tích Phủ Dầy được xây dựng trên mảnh đất quê hương nơi Mẫu giáng sinh lần thứ hai. Theo nội dung văn bia “Tiên từ phả ký” (Ngọc phả ghi chép việc đền Tiên Hương), “Thánh mẫu cố trạch linh từ bi ký”(Bia ghi việc nền móng cũ đền thiêng của Đức thánh Mẫu) hiện đang lưu giữ tại di tích thì Phủ Dầy (gồm Phủ Tiên Hương và Phủ Vân Cát) có lịch sử xây dựng sớm nhất vào thời Hậu Lê, niên hiệu Dương Hoà (1642) và Cảnh Trị (1663-1671). Công trình ban đầu chỉ là một ngôi miếu nhỏ được nhân dân địa phương xây dựng để phụng thờ và tri ân công đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Trải qua các giai đoạn lịch sử, chính quyền, nhân dân và du khách thập phương công đức tiền của, công sức để trùng tu, xây dựng Phủ Dầy thành một quần thể kiến trúc thờ Mẫu khang trang, bề thế như hiện nay. Phủ Tiên Hương được xây dựng trong một khuôn viên rộng gần 7500m2, mặt quay hướng Tây Nam. Trên mặt bằng tổng thể, công trình gồm 19 toà với 81 gian lớn nhỏ, cao thấp khác nhau được bố trí đăng đối, hài hòa tạo thành bình đồ kiến trúc kiểu “Nội trùng thềm, ngoại chữ quốc”. Nhìn từ bên ngoài vào, đầu tiên là một giếng tròn mang ý nghĩa “Tụ thủy để tụ phúc”, tiếp đến là 3 tòa phương đình, hồ bán nguyệt và công trình chính. Hai bên công trình chính là 2 giải vũ chạy suốt nối liền lầu Cô, lầu Cậu với nhà bia, nhà khách. Công trình chính có bốn cung thờ gồm: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ. Các cung thờ đều có bộ khung được lắp dựng bằng gỗ lim, thiết kế theo lối trùng thiềm điệp ốc, tạo cho không gian nơi thờ tự rộng phía ngoài và sâu hút phía trong. Trong số 4 cung thờ thì cung đệ tứ là hạng mục công trình có giá trị nghệ thuật cao nhất. Tại đây, trên hệ thống vì kèo, xà ngang, xà dọc, ván bưng các cấu kiện kiến trúc được các nghệ nhân gia công, chạm khắc rất công phu, tỉ mỉ với nhiều đề tài, họa tiết sinh động như: tứ linh, tứ quý, cá hóa long, bánh xe pháp luân, cặp tiền “ngũ phúc”, dơi ngậm chữ “thọ”, nghê chầu, lưỡng đào, sen quy... mang giá trị nghệ thuật thời Nguyễn, thế kỷ XIX - XX. Phủ Vân Cát nằm cách Phủ Tiên Hương khoảng 1km về hướng Đông, được xây dựng trên một khu đất rộng gần 3600m2, mặt quay về hướng Tây Bắc. Công trình gồm 7 tòa với 30 gian lớn nhỏ cũng được thiết kế tương tự phủ Thiên Hương theo kiểu “Nội trùng thềm, ngoại chữ quốc”. Trên mặt bằng tổng thể, nhìn từ ngoài vào, đầu tiên là hồ bán nguyệt, giữa hồ là tòa thủy đình 3 gian được lắp dựng hoàn toàn bằng gỗ lim. Tiếp đến là hệ thống nghi môn (ngũ môn) thiết kế theo kiểu chồng diêm 3 tầng, 5 gác lâu và công trình chính. Công trình chính cũng được thiết kế gồm 4 cung: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ. Phần giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật được thể hiện rõ nét nhất trên các cấu kiện kiến trúc gỗ của cung đệ tứ. Tại đây, các nghệ nhân đã dồn toàn bộ tài trí, công sức chạm khắc nên những tác phẩm nghệ thuật hết sức phong phú, đa dạng với các họa tiết long hóa, rồng chầu phượng múa đan xen là bầy ly vui đùa cùng những chú rùa ẩn hiện dưới ao sen... mang phong cách kiến trúc nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVII - XVIII. Lăng Mẫu Liễu Hạnh được xây dựng vào năm 1938, trên một khu đất cao có diện tích rộng 1647m2. Lăng xây hoàn toàn bằng chất liệu đá xanh, gồm nhiều vòng tường hình vuông. Chính giữa các vòng tường đều có cửa được cấu tạo bởi 2 cột trụ, phía trên đỉnh trụ có đặt một bông sen đá màu hồng. Giữa lăng là ngôi mộ khối bát giác, mỗi cạnh rộng 1,3m. Tổng thể công trình lăng có 60 trụ tương ứng với 60 búp sen trông xa như một hồ sen cạn. Công trình kiến trúc Phủ Dầy, kể từ khi khởi dựng đến nay đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo và mở rộng quy mô nhưng vẫn bảo tồn nguyên vẹn những giá trị kiến trúc mang đậm dấu ấn nghệ thuật thời Lê - Nguyễn. Với cách tính toán hợp lý, khoa học về quy mô, kết cấu kiến trúc đến việc kết hợp, sử dụng tài tình các vật liệu xây dựng, cha ông ta đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật vô cùng độc đáo và hoàn mỹ. Cả ba di tích phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát và lăng Mẫu Liễu Hạnh, không chỉ có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hoá, khoa học mà còn có giá trị về thẩm mỹ, kiến trúc nghệ thuật. Ngoài vị trí toạ lạc trong cảnh quan sơn thủy hữu tình, các di tích này đều có quy mô bề thế, kết cấu đăng đối, hài hoà, cùng với giá trị nghệ thuật đặc sắc thông qua các đề tài điêu khắc phong phú, đa dạng. Tất cả những yếu tố đó đã trở thành hạt nhân quan trọng cấu thành một quần thể kiến trúc, một “siêu điện thờ” nổi tiếng không chỉ của Nam Định, mà còn tiêu biểu của cả nước. Bên cạnh đó, hệ thống di vật, cổ vật và đồ thờ tự như: văn bia, sắc phong, câu đối, đại tự…cùng truyền thuyết về Thánh mẫu Liễu Hạnh là những nguồn tư liệu phong phú và quý báu giúp các nhà nghiên cứu khoa học trên nhiều lĩnh vực lý giải và nhận diện giá trị to lớn của các di tích này đối với hệ thống di sản văn hoá của dân tộc qua các thời đại.
Nam Định 1818 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Vườn quốc gia Xuân Thủy chính là khu bảo tồn ngập nước ven biển tại huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Đây là khu rừng ngập mặt đầu tiên của Đông Nam Á tham gia công ước quốc tế RAMSAR. Với hệ thống sinh thái lý thú và hấp dẫn nhiều loài chim quý hiếm trở về đây cư trú nơi đây đã tạo lên một bức tranh tươi đẹp, sống động của một vùng quê điển hình ngay cửa sông ven biển miền Bắc. Thời điểm thích hợp đi du lịch vườn quốc gia Xuân Thủy là từ tháng 10 – 11 đến tháng 3 – 4 năm sau, bởi vào lúc này lượng chim tăng đột biến tạo nên một không khí vô cùng náo nhiệt của hàng ngàn cá thể chim di cư tránh rét từ phương Bắc. Bên cạnh đó theo kinh nghiệm du lịch vườn quốc gia Xuân Thủy thì bạn cũng có thể tới thăm vào các tháng mùa Hè để tận hưởng gió biển và ngắm cảnh sắc rực rỡ tại đây. Du lịch vườn quốc gia cũng là dịp để bạn thưởng thức những món ăn đặc sắc Giao Thủy như: nem chạo, nem nắm Giao Thủy, nước mắm Sa Châu, nộm sứa, mật ong rừng ngập mặn... hay những loại hải sản tươi ngon của vùng biển như: ngao, sò, tôm, cua… Hệ sinh thái quốc gia Xuân Thủy được UNESCO công nhận là vùng lõi khu dự trữ sinh quyển thế giới khu ven biển liên tỉnh đồng bằng sông Hồng. Đây được coi là sân ga của những loài chim di trú quốc tế với hơn 200 loài trong đó có hơn 50 loài chim nước và 100 loài chim di cư. Vì thế, vườn quốc gia Giao Thủy sẽ trở thành khu du lịch sinh thái hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước khi đi du lịch Nam Định. Bên cạnh việc tham quan tại vườn quốc gia Xuân Thủy thì du khách quay lại đất liền, nghỉ ngơi tại khách sạn, nhà nghỉ. Và nếu muốn có chuyến trải nghiệm đáng nhớ trong đời thì bạn nên dựng lều ngủ trong rừng thông bên cạnh cánh đồng ngao để sáng sớm thức giấc có thể đón bình minh tuyệt vời. Với trên 200 loài chim với hàng chục nghìn cá thể, VQG Xuân Thuỷ thực sự là một ga chim lớn của vùng đồng bằng Sông Hồng. Đến với VQG Xuân Thuỷ bạn sẽ được khám phá các loài chim mới lạ, được thoả sức ngắm nhìn những chú chim đang say sưa kiếm ăn, những đàn cò bay lượn trên nền rừng xanh biếc.
Nam Định 2036 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhắc tới Nam Định là nhắc tới vùng đất Thành Nam có lịch sử văn hóa, văn hiến lâu đời. Nhắc tới Nam Định là nhắc đến vùng đất học, nơi đã đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước. Nam Định từ xưa đã được coi là kinh đô thứ hai của nước Đại Việt sau kinh thành Thăng Long bởi đây là nơi phát tích của Vương triều nhà Trần. Chính vì thế mà khu di tích đền Trần không chỉ trở thành nơi tưởng nhớ các vua Trần có công bảo vệ đất nước mà còn là một điểm đến tâm linh thu hút nhiều du khách Để đi vào Đền phải đi qua cổng ngũ môn. Qua cổng là một hồ sen, hoa nở thơm ngát cả một vùng. Đường vào đền rợp bóng cây cổ thụ to lớn, tạo bóng râm cho khách đến vãn cảnh. Khu di tích Đền Trần bao gồm 3 công trình kiến trúc chính. Chính giữa phía sau hồ là đền Thiên Trường. Phía bên phải là đền Cố Trạch còn bên trái là đền Trùng Hoa. Nguồn ảnh: instagram vickyvan97 Hàng năm đền Trần diễn ra hai lễ hội lớn thu hút rất nhiều khách thập phương. Đó là Lễ hội Đền Trần được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 20 tháng tám âm lịch hàng năm và Lễ khai ấn đền Trần vào rạng sáng ngày 15 tháng giêng đã được ghi danh vào mục di sản văn hóa phi vật thể của Quốc gia.
Nam Định 1992 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhắc đến Nam Định du khách không chỉ nhớ đến đây là vùng đất “địa linh nhân kiệt” nơi sản sinh ra những người tài cho đất nước. Mà còn là một điểm đến ‘’được lòng du khách’’ bởi khung cảnh thiên xinh đẹp, kết hợp với những công trình kiến trúc cổ kính. Trong đó, một trong những công trình kiến trúc được ví như trời Tây, thu hút hàng nghìn lượt du khách viếng thăm là nhà thờ Hưng Nghĩa. Mang lối kiến trúc nguy nga, hoành tráng, giáo xứ Hưng Nghĩa là điểm checkin nổi tiếng so deep. Đến đây du khách vừa có cơ hội tham quan, chiêm ngưỡng công trình, vừa là nơi để du khách địa phương tìm đến và cầu nguyện cho sự bình yên may mắn. Trước khi bắt đầu khám phá giáo xứ, hãy cùng theo chân Traveloka để có nhiều ký sự. Nhà thờ Hưng Nghĩa tọa lạc tại xã Hải Hưng, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, cách trung tâm thành phố tầm 30km. Đây là 1 trong những giáo xứ nổi tiếng nhất khu vực phía Bắc, bởi sở hữu lối kiến trúc hoành tráng, nguy nga mà bất kỳ ai nhìn thấy cũng đều phải trầm trồ về độ tráng lệ của nó. Được xây dựng vào năm 1927, giáo xứ trải qua nhiều khoảng thời gian thăng trầm của lịch sử nước nhà, có nhiều dấu hiệu của việc xuống cấp. Đến năm 2000 giáo xứ Hưng Nghĩa được tu sửa lại, sau khoảng thời gian 7 năm thì khánh thành. Sau khi được trùng tu, vẻ đẹp của nhà thờ trở nên đặc biệt hơn, là sự kết hợp của nét hiện đại nhưng vẫn phảng phất nét cổ điển không thể lẫn vào đâu được. Theo kinh nghiệm du lịch Nam Định du khách có thể đặt chân đến Nam Định và tham quan giáo xứ Hưng Nghĩa vào bất cứ thời gian nào trong năm. Tuy nhiên, khoảng thời gian lý tưởng nhất để có những tấm ảnh “so deep” thì sẽ là vào mùa đông. Dưới tiết trời se lạnh, bầu trời hơi gợn xám, những nam thanh nữ tú khoác lên mình những bộ áo choàng, áo dạ hay chiếc khăn ấm. Tất cả kết hợp với khung cảnh nguy nga của nhà thờ, khiến mọi thứ trở nên hoàn hảo, giống như bạn đang lạc vào một khung trời Âu nào đó. Ấn tượng đầu tiên của bất cứ du khách nào khi bước đến nhà thờ Hưng Nghĩa là sự trầm trồ đáng kinh ngạc. Bởi nơi đây sở hữu lối kiến trúc hoành tráng, nguy nga, tựa một lâu đài trong những bộ phim cổ tích. Toà bộ công trình được xây dựng khá tỉ mỉ, chi tiết với nhiều chạm trổ, điêu khắc ly kỳ, có một chút mới lạ và hiếm có. Phía trước giáo xứ được xây dựng 2 tòa tháp cao ở 2 bên theo kết cấu giống những nhà thờ Tây Phương. Phía chính giữa tòa nhà là cửa chính để đi vào thánh đường, bên trên có đền tưởng niệm Đức Thánh Tâm Chúa và Mẹ La Vang. Không chỉ được xây dựng nguy nga, nhà thờ Hưng Nghĩa còn nổi bật với những chi tiết rất tinh xảo, tỉ mỉ. Những nóc nhà mái vòm kết hợp chóp nhọn vươn cao, tạo nên một tổng thể đẹp mắt tựa như kiến trúc của trường học Hogwarts trong phim Harry Potter. Tổng quan bên ngoài giáo xứ đã khiến du khách trầm trồ bởi độ hoành tráng, thì bước vào bên trong thánh đường du khách cũng sẽ bất ngờ không kém. Với rất nhiều cửa sổ có kích thước khác nhau, toà thánh đường được bao phủ với ánh sáng đầy màu sắc, làm mọi thứ trở nên lung linh hơn. Sự trang trọng, trầm nghiêm của các bức tượng Đức Mẹ La Vang và Đức Thánh Tâm Chúa, giúp mọi thứ trở nên trang nghiêm hơn. Vào gần bàn thờ Đức Chúa Giêsu, bạn sẽ cảm nhận được một cảm giác thanh thản, nhẹ nhàng khó tả, dù bạn có theo đạo hay không. Giáo xứ Hưng Nghĩa Nam Định được xem như chốn bình yên. Những ai đang sống trong cuộc sống bộn bề, muốn tìm một nơi để giải tỏa căng thẳng và xoa dịu tâm hồn, thì nhà thờ Hưng Nghĩa chính là một lựa chọn phù hợp. Đến với vùng đất Nam Định, du khách không chỉ bị hấp dẫn bởi những kiến trúc, công trình mang dấu ấn lịch sử, truyền thống dân tộc. Mà nơi đây còn trứ danh với những món ngon hấp dẫn, làm mê mẩn bao nhiêu con người. Sau chuyến tham quan nhà thờ Hưng Nghĩa, bạn đã săn đủ ảnh đẹp. Thì đừng quên cùng nhóm bạn thưởng thức những món ngon nức tiếng vùng Nam Định nhé. Ngoài ra, còn một số món ngon khác mà bạn nên thưởng thức để hiểu thêm về ẩm thực vùng Nam Định như Bún đũa, Bánh nhãn, Bánh cuốn làng Kênh, cá nướng úp chậu,.. Nhà thờ Hưng Nghĩa một trong những biểu tượng du lịch của đất Nam Định, sẽ mang đến cho bạn những trải nghiệm thú vị tại một công trình kiến trúc đồ sộ. Nếu có dịp đến Nam Định, thì đừng quên dừng chân tại giáo xứ nổi tiếng nhất vùng để có những bức ảnh tựa trời Tây nhé.
Nam Định 68 lượt xem
Từ tháng 01 đến tháng 12.
Biển Thịnh Long chào đón bạn bằng thanh âm êm ả của làn sóng vỗ rì rào vào bờ cát cùng làn gió mang theo hơi nước mằn mặn đặc trưng. Nơi đây chắc chắn là sẽ là điểm dừng chân hoàn hảo cho những ai muốn tìm một chốn bình yên để nương về. Trái ngược với khung cảnh sầm uất, náo nhiệt của nhiều địa danh khác, biển Thịnh Long sở hữu vẻ đẹp hiền hòa của một vùng biển vắng, phù hợp dành cho những ai muốn có giây phút thư giãn yên bình. Biển Thịnh Long nằm tại phía Nam tỉnh Nam Định, thuộc thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định không quá đẹp nhưng vẫn đủ để níu chân bao người. Nơi đây sở hữu ba bãi tắm với bờ cát trắng phau mịn màng, sóng êm ái cùng làn nước trong xanh đẹp mắt. Chung quanh những bãi tắm tại biển Thịnh Long là những hàng phi lao cao vút kiêu mình vươn hãnh giữa nắng gió, điểm xuyết cùng các rặng dứa dại rất lạ mắt. Bên cạnh vẻ đẹp hiền hòa mà Mẹ thiên nhiên ban tặng, bãi biển Thịnh Long còn thu hút mọi người nhờ các đặc sản hấp dẫn. Còn gì tuyệt vời hơn khi tha hồ vẫy vùng trong làn nước mát, sau đó thưởng thức hải sản tươi ngon ngay bên bờ biển phải không nè? Là tỉnh thuộc miền Bắc, thế nên, thời tiết Nam Định phân chia thành bốn mùa rõ rệt trong năm. Nếu có ý định vui chơi thỏa thích tại biển Thịnh Long Nam Định, thì tháng 4 đến tháng 6 hằng năm sẽ là thời điểm phù hợp. Trong thời gian này, khí trời tại Nam Định lý tưởng, trời trong, nắng ráo, không mưa và mát mẻ, thích hợp để tham gia các hoạt động tham quan, vui chơi giải trí ngoài trời. Đối với những ai yêu thích cảm giác được vẫy vùng, thì bãi tắm số 1 chắc chắn sẽ là điểm dừng chân phù hợp nhất. Không chỉ sở hữu làn nước trong xanh với những con sóng êm đềm, tại bãi số 1 còn có một cồn cát đẹp, phù hợp để chụp ảnh check-in. Đặc biệt, bãi tắm 1 là địa điểm tập trung nhiều nhà hàng, quán ăn lẫn khách sạn tại khu vực biển Thịnh Long. Thế nên, nếu có nhu cầu ăn uống hoặc nghỉ ngơi, MIA.vn gợi ý bạn ghé đến bãi tắm số 1 nhé. Tương tự bãi 1, bãi 2 cũng là điểm dừng chân được nhiều người ưu ái lựa chọn khi có dịp du lịch, vui chơi tại biển Thịnh Long. Được xem là bãi tắm chính của điểm du lịch, thế nên, khi đến đây, bạn sẽ nhìn thấy hình ảnh đông người tấp nập qua lại. Không khí sôi động, náo nhiệt tại bãi tắm số 2 hứa hẹn sẽ phù hợp dành cho những ai hướng ngoại. Trong số ba ‘người anh em’, thì có lẽ bãi tắm số 3 có phần hiền hòa, êm đềm hơn. Bãi tắm số 3 nằm ngay kè cửa sông Ninh Cơ, với điểm nhấn là một dải cát rộng, dài, phẳng mịn. Không khí tại bãi số 3 cũng trầm mặc hơn so với hai bãi 1 và 2, phù hợp dành cho những ai muốn có giây phút thư giãn riêng tư. Nổi tiếng với làn nước trong xanh cùng những con sóng hiền hòa xô bờ, bãi biển Thịnh Long được xem là điểm dừng chân hoàn hảo dành cho ai muốn thỏa thích tắm biển. Đến đây, bạn sẽ có thể thỏa thích vẫy vùng tại khu vực bãi 1, bãi 2, hòa cùng không khí náo nhiệt. Hoặc nếu muốn yên tĩnh và riêng tư, thì bãi 3 sẽ là lựa chọn phù hợp. Tại cả ba bãi tắm ở biển Thịnh Long đều có những hoạt động vui chơi, giải trí bên bờ biển rất thú vị đang đợi bạn. Đối với những ai yêu thích cảm giác mạnh, thì mô tô lướt sóng cũng là một trải nghiệm tuyệt vời mà bạn nên thử. Dù vào khoảnh khắc bình minh đầu ngày hay khi hoàng hôn dần buông xuống, thì biển Thịnh Long đều đẹp theo một cách riêng. Đối với những bạn muốn chiêm ngưỡng khung cảnh đất và trời như hòa làm một, bạn có thể dậy sớm từ khoảng 5h hoặc ngồi lại bên bãi biển tới khi hoàng hôn buông xuống. Đặc biệt, vào khoảnh khắc ông mặt trời dần ló dạng nơi phía xa đường chân trời, đó cũng là thời điểm những con tàu với khoang đầy ắp cá tôm cập bờ. Lúc này, một ngày mới lại bắt đầu bên bãi biển với khung cảnh người mua, kẻ bán tấp nập. Nếu muốn khám phá nhịp sống của người dân địa phương, thì đây sẽ là thời điểm lý tưởng nhất. Bên cạnh làn nước trong veo cùng khung cảnh lãng mạn, biển Thịnh Long còn thu hút mọi người nhờ những đặc sản, hải sản tươi ngon. Quanh khu vực bãi biển có nhiều nhà hàng lẫn quán ăn để bạn có thể lựa chọn. Trong đó, các món tôm, cua biển, cá vược, cá thu, tôm hùm, ghẹ biển, bề bề và mực là những lựa chọn hàng đầu trong lòng thực khách. Ngoài ra, nếu muốn khám phá ẩm thực địa phương, thì các món như phở xíu, bún Thành Nam, xôi Nam Định, bánh cuốn, bánh gai hoặc xá xíu cũng là những gợi ý dành cho bạn. Còn gì tuyệt vời hơn sau những giây phút thỏa thích tắm mát và được thưởng thức món ăn nóng hổi thơm ngon đúng không nè? Biển Thịnh Long được ví von là vì sao sáng trên bản đồ du lịch Nam Định, với vẻ đẹp hoang sơ cùng làn nước trong xanh êm đềm. Nếu bạn có ý định du lịch Nam Định đừng quên khám phá bãi biển xinh đẹp này nhé!
Nam Định 72 lượt xem
Từ tháng 04 đến tháng 06
Nếu có dịp ghé qua cánh đồng muối Bạch Long tại Nam Định, bạn sẽ được chứng kiến hình ảnh trắng xóa từ những ruộng muối rộng lớn, bên cạnh đó là các diêm dân đang say sưa miệt mài làm việc. Đây cũng chính là những điều đặc trưng đã tạo nên sự thu hút riêng cho nơi đây và hấp dẫn rất nhiều người ghé thăm. Cánh đồng muối Bạch Long có vị trí tại xã Bạch Long, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định. Xã Bạch Long là một trong các xã có ruộng muối lớn nhất khu vực Bắc Bộ với diện tích lên đến 230ha. Từ xa xưa nơi đây vốn là vùng đất được bãi biển bồi đắp, sau đó người dân từ mọi miền đến đây sinh sống, lập nên làng xã trước cả khi thực dân Pháp xâm lược. Đến ngày nay, làm muối đã chính thức trở thành nghề truyền thống của người dân tại xã Bạch Long với hơn 1000 hộ dân tham gia. Do vị trí tự nhiên là nằm ven biển nên nơi đây không thể trồng lúa, lại có thế mạnh là nguồn nước mặn dồi dào nên việc làm muối trở nên cực kỳ phát triển. Cánh đồng muối Bạch Long cũng nằm trong TOP các ruộng muối đẹp nhất miền Bắc, vì thế nên được rất nhiều du khách mong muốn ghé thăm. Để lựa chọn thời điểm thuận lợi ghé thăm cánh đồng muối Bạch Long thì chắc chắn sẽ là từ tháng 3 cho đến hết tháng 8 mỗi năm, do đây chính là mùa làm muối của người dân nơi đây. Đến đây vào những ngày này bạn sẽ được chứng kiến cái nắng rực lửa cùng những hình ảnh hăng say làm việc của các diêm dân, lý do là vì nắng càng to thì muối kết tinh càng nhanh và giúp cho việc thu hoạch của người dân thêm thuận lợi. Để làm ra những hạt muối trắng tinh không hề đơn giản chút nào mà phải là cả một quá trình kỳ công. Ngay từ lúc sáng sớm, nhiều diêm dân đã phải có mặt trên cánh đồng muối Bạch Long và thường xuyên kết thúc công việc khi trời đã tối muộn. Cách làm muối tại đây cũng rất đặc biệt, thay vì làm muối bằng phương pháp hơi nước như miền Nam hay miền Trung, muối tại miền Bắc được làm bằng phương pháp phơi trên cát. Tại nhiều đồng muối khác thì diêm dân chỉ cần múc nước biển và phơi, những với các diêm dân Bạch Long sẽ cần thêm một bước nữa là phơi và lọc cát. Lý do là vùng biển Giao Thuỷ nằm gần cửa sông nên nồng độ mặn thấp, vì thế phải cần công đoạn phơi cát, lọc cát để tăng nồng độ mặn. Đầu tiên vào lúc 6 giờ sáng, diêm dân sẽ bắt đầu ngâm cát cùng nước biển, làm đất. Trên cánh đồng sẽ có những ô đất hình chữ nhật để làm mịn bề mặt, đổ cát ngấm nước phơi lên, đôi khi phải thêm nước biển để tăng độ mặn. Khi nắng lên và sau khoảng nhiều giờ, nước biển sẽ bốc hơi và muối sẽ kết tinh bám trên bề mặt cát. Tiếp tục nước biển sẽ được dẫn từ ngoài biển vào lọc cùng cát qua chạt rồi chảy vào thống con, qua thống cái. Diêm dân lúc này sẽ lấy những chiếc bầu múc nước từ thống cái rồi đổ lên sân phơi bằng xi măng như các ô bàn cờ. Ô nhỏ thì 2 bầu, ô lớn 3-4 bầu. Lúc này diêm dân sẽ tranh thủ nghỉ ngơi và quay lại làm việc vào lúc 1 giờ chiều. Đây cũng là thời gian cát phơi đã khô, từng hạt cát đã kết tinh thành những hạt muối trắng nhỏ. Diêm dân sẽ thu gom muối thành từng luống, xúc lên xe cút kít và đẩy về kho. Muối sẽ được bảo quản và đợi thương lái đến thu mua. Đúng là phải đến tận nơi chứng kiến thì chúng ta mới có thể cảm nhận hết được những khó khăn, vất vả của nghề làm muối. Nếu có dịp du lịch Nam Định thì bạn đừng quên ghé qua cánh đồng muối Bạch Long để trải nghiệm quá trình làm muối của những người dân nơi đây.
Nam Định 48 lượt xem
Từ tháng 03 đến tháng 08.
Khu di tích Đền Trần Nam Định là ngôi đền thờ 14 vị vua nhà Trần cùng gia quyến và các quan lại có công phù tá. Nơi đây còn nổi tiếng với Lễ dâng hương khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám âm lịch hàng năm. Khu di tích đền Trần - Nam Định bao gồm 3 công trình kiến trúc chính là: đền Thiên Trường, đền Cố Trạch và đền Trùng Hoa, có kiểu dáng chung và quy mô ngang nhau. Phía trước có cổng ngũ môn. Qua cổng là một hồ nước hình chữ nhật. Chính giữa phía sau hồ là đền Thiên Trường. Đền Thiên Trường thường gọi Đền Thượng, tọa lạc ở vị trí trung tâm của khu di tích Đền Trần Nam Định. Đền được xây trên nền Thái Miếu và cung Trùng Quang của nhà Trần mà trước nữa là nhà thờ tộc của họ Trần. Cung Trùng Quang là nơi các thái thượng hoàng nhà Trần sống và làm việc. Kiến trúc Đền Thiên Trường hiện nay gồm có tiền đường, trung đường, chính tẩm, thiêu hương, 2 dãy tả hữu vu, 2 dãy tả hữu ống muống, 2 dãy giải vũ Đông Tây. Tổng cộng có 9 tòa, 31 gian. Khung đền được dựng bằng gỗ lim, mái lợp ngói, nền lát gạch. Tiền đường là nơi để ban thờ và bài vị của các quan có công lớn phù tá nhà Trần. Trung đường đặt bài vị của 14 hoàng đế nhà Trần. Chính tẩm thờ tự 4 vị thủy tổ họ Trần, và các phu nhân, hoàng phi. Tòa thiêu hương (kinh đàn) đặt ban thờ và bài vị của các công thần nhà Trần. Đền Cố Trạch thường gọi là Đền Hạ, nằm ở mặt Đông của khu di tích Đền Trần Nam Định. Tiền đường đặt bài vị 3 gia tướng thân tín của Trần Hưng Đạo là Phạm Ngộ, Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa. Trung đường thờ bài vị và tượng của Trần Hưng Đạo, 4 người con trai, Phạm Ngũ Lão và các tả hữu tướng quân. Chính tẩm đặt bài vị cha mẹ, Trần Hưng Đạo và vợ (công chúa Thiên Thành), 4 con trai và 4 con dâu, con gái và con rể. Thiêu hương (kinh đàn) đặt long đình, trong có tượng Trần Hưng Đạo cùng 9 pho tượng Phật. Gian tả vu đặt bài vị Trương Hán Siêu, Phạm Thiện Nhân và các văn thần triều Trần. Gian hữu vu đặt bài vị các võ thần triều Trần, bài vị Trần Công và các thân nhân họ Trần. Đền Trùng Hoa nằm ở mặt phía Tây của khu di tích Đền Trần. Đền được xây dựng mới từ năm 2000, trên nền cung Trùng Hoa xưa - nơi các hoàng đế nhà Trần về tham vấn các vị thái thượng hoàng. Trong đền Trùng Hoa có 14 pho tượng được đúc bằng đồng của 14 hoàng đế nhà Trần đặt tại tòa trung đường và tòa chính tẩm. Tòa thiêu hương đặt ngai và bài vị thờ hội đồng các quan. Gian tả vu thờ các quan văn. Gian hữu vu thờ các quan võ. Hàng năm, tại khu di tích Đền Trần Nam Định sẽ diễn ra 2 lễ hội lớn, đó là Lễ khai ấn Đền Trần đầu xuân và Hội Đền Trần tháng tám, thu hút đông đảo người dân địa phương cùng du khách thập phương về dự, tri ân công đức của 14 vị vua Trần và cầu mong những điều tốt đẹp. Đền Trần là khu di tích lịch sử văn hóa đặc biệt, quan trọng của tỉnh Nam Định được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2012. Nguồn: Cổng thông tin Điện tử Thành phố Nam Định
Nam Định 2134 lượt xem
Đền Bảo Lộc, xã Mỹ Phúc (Mỹ Lộc) được xây dựng trên đất “thang mộc” của An Sinh Vương Trần Liễu, thân phụ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và là anh trai của Trần Thái Tông - vị vua đầu tiên của vương triều Trần. Thời Trần, cùng với việc xuất hiện chế độ Thượng hoàng, năm 1262, hương Tức Mặc đổi thành phủ Thiên Trường và được xây dựng quy mô như kinh đô thứ hai sau Thăng Long. Bên cạnh việc xây dựng cung điện, nhà cửa nguy nga tráng lệ cho bậc đế vương, nhà Trần còn phong hàng loạt thái ấp cho các quý tộc, bao quanh như một vành đai bảo vệ Thiên Trường. Ấp An Lạc ngày đó cách trung tâm Thiên Trường 2km (đường chim bay) về phía bắc. Tương truyền, ấp An Lạc là nơi sinh ra và lớn lên của Trần Quốc Tuấn. Với công lao to lớn trong ba cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, tháng 4 năm 1288 ông được ban tước hiệu “Quốc công tiết chế Hưng Đạo đại vương”. Khi ông mất, triều đình lại phong là: “Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo đại vương”. Đền Bảo Lộc ban đầu được xây dựng ven sông Châu gồm ba gian gỗ lim lợp ngói mũi hài, sau bờ sông bị sói lở, đền được di chuyển vào vị trí như hiện nay. Một thời gian dài tồn tại với quy mô nhỏ, đầu thế kỷ XX, đền Bảo Lộc được nhân dân quyên tiền nâng cấp thành công trình kiên cố, quy mô khá lớn, kích thước cao rộng. Đền được xây theo thiết kế của Đông Phương Bác Cổ, song có sửa chữa lại cho phù hợp với kiến trúc cổ truyền của dân tộc. Bắt đầu xây dựng từ năm 1928, phải 5 năm sau công trình mới hoàn thành. Đền nằm chính giữa, quay hướng đông, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là phủ thờ Mẫu, phía sau đền là Khải Thánh thờ vương phụ, vương mẫu, phu nhân của ông. Toàn bộ khu di tích được thiết kế đăng đối, hài hòa, không gian thoáng đãng tạo cảm giác thanh thoát lòng người về lễ thánh. Đền Bảo Lộc nằm chính giữa được xây theo kiểu chữ đinh gồm tiền đường 7 gian rộng, trung đường dài 5 gian, hậu cung 3 gian. Kiến trúc của đền đơn giản, các cột xây bằng gạch, nhiều xà được đổ xi măng cốt thép bền vững, bề thế. Tuy chạm khắc không nhiều, song rải rác ở từng bộ phận vẫn có các đề tài: tứ linh, long cuốn thủy, hoa lá, tùng, cúc, trúc, mai… Đặc biệt, sáu bộ cánh cửa ở hậu cung với những mảng chạm tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Trong đền, ngoài bài vị còn có hai pho tượng thờ Trần Hưng Đạo (một bằng đồng, một bằng gỗ). Pho tượng đồng trong tư thế ngồi nặng 4,8 tấn, đặt ở trung đường. Hai bên có tượng Hưng Vũ Vương Nhiễn và Phạm Ngũ Lão là con trai và con rể của ông. Pho tượng bằng gỗ trầm hương được đặt tại hậu cung, hai bên là tượng thầy dạy văn và thầy dạy võ. Đền Khải Thánh nằm ở phía sau, kiến trúc tương tự như đền chính nhưng phần nền cao hơn 3m, thờ thân phụ, thân mẫu, phu nhân và hai người con gái của Trần Hưng Đạo. Cách bài trí thờ tự ở đây thể hiện tinh thần tôn sư trọng đạo, trung hiếu vẹn toàn của Hưng Đạo đại vương. Trong các di tích thờ Trần Hưng Đạo, đền Bảo Lộc có ý nghĩa đặc biệt vì mảnh đất này đã gắn với tuổi thơ của ông. Bởi vậy dân gian có câu “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê hương Bảo Lộc”. Hằng năm, vào ngày kỵ của ông (20 tháng 8 âm lịch) rất đông khách thập phương lại có dịp về lễ hội truyền thống Trần Hưng Đạo. Nguồn: Di tích lịch sử - văn hóa Nam Định
Nam Định 2070 lượt xem
Đền Giáp Ba hay còn gọi là đền Cẩm Nang tọa lạc tại thị trấn Nam Giang, thành phố Nam Định. Công trình bao gồm Đền chính thờ Triệu Việt Vương và hai Đền thờ hai vị tướng họ Đoàn. Từ thời Hậu Lê, nơi đây được gọi là thôn Cẩm Nang thuộc xã Châu Nguyên, nay là thôn Ba, thị trấn Nam Giang, nhân dân vẫn gọi là Giáp Ba. Cái tên đền Cẩm Nang xưa hay đền Giáp Ba nay có xuất xứ là như vậy. Đền Giáp Ba được xếp hạng di tích lịch sử - văn hoá cấp Quốc gia năm 1994. Theo nguồn tư liệu lịch sử và truyền thuyết thì ở xã Phật Nội huyện Chu Diên, phủ Tam Đới, đạo Sơn Tây có ông Triệu Túc vợ là Hán Thị Siêu. Một đêm bà Siêu nằm mơ thấy rồng bay, sau đó bà có mang. Mùa xuân năm Mậu Thìn, bà sinh một bé trai khôi ngô tuấn tú đặt tên là Quang Phục. Thuở nhỏ, Quang Phục rất chăm chỉ học hành, văn võ đều tinh thông. Năm mười bẩy tuổi, cha mẹ qua đời, ông theo danh tướng Lý Bôn đánh tan quân xâm lược nhà Lương, giành độc lập cho đất nước. Năm 544, Lý Bôn lên ngôi vua, xưng là Lý Nam Đế, định đô ở Long Biên. Không lâu sau, nhà Lương sai Trần Bá Tiên, Dương Sàn đem quân xâm lược nước ta; Lý Nam Đế thất trận chạy về động Khuất Liêu, trao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Năm 547, Triệu Quang Phục lui về đầm Dạ Trạch (nay là vùng Khoái Châu, Hưng Yên), vùng đầm lầy rộng lớn, lau sậy um tùm; ông cho quân lập doanh trại trên một vùng gò đất nổi giữa đầm, hàng ngày dùng thuyền độc mộc đi đánh tỉa làm quân Lương hao tổn nhiều binh lực, tinh thần hoang mang cực độ. Dần dần quân ta thắng lớn quét sạch quân Lương ra khỏi bờ cõi. Sau khi đánh tan quân giặc năm 548, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương, đóng đô ở Long Biên. Đến năm 570, ông bị Lý Phật Tử - người cùng họ với Lý Nam Đế đem quân đánh úp, phải rút chạy, rồi trẫm mình xuống cửa biển Đại Nha vào ngày 14/8. Tương truyền khi rút chạy, Triệu Việt Vương đã dừng chân ở thôn Cẩm Nang lập doanh trại nhưng vẫn bị truy kích, phải chạy đến cửa biển Đại Nha (nay thuộc thôn Độc Bộ xã Yên Nhân huyện Ý Yên). Hiện nay, ở thôn Ba thị trấn Nam Giang vẫn còn những dấu tích của lần Triệu Việt Vương dừng chân như: khu đất An Mã Chiến - nơi quan quân cho ngựa ăn cỏ, uống nước; nơi ngựa chạy gọi là Mã Khởi, phía Đông Nam làng có đường Mã Chạy, doanh trại quân lính xưa là khu Cầu Cửa... Sau khi Triệu Việt Vương mất, để tưởng nhớ công lao to lớn của ông, nhân dân thôn Cẩm Nang đã lập đền thờ ngay trên khu đất mà ông đã dừng chân. Đền thờ ông với qui mô lớn, cùng nhiều đồ tế tự rất nghiêm trang lộng lẫy. Trải qua nhiều triều đại phong kiến, đền thôn Ba đều được phong sắc phụng sự. Ngay bên cạnh đền thờ vua Triệu Việt Vương còn có hai ngôi đền thờ quan Đoàn Tướng Công và Đoàn Công Thưởng. Đây là hai người sống ở thế kỷ thứ 18, thuộc dòng dõi họ Đoàn ở Cẩm Nang. Sinh thời hai ông đã từng đảm nhận nhiều trọng trách của Triều đình. Trong đó, Đoàn Công Thưởng còn gọi là Đoàn Quận Công, đã được phong tới chức Tổng thái giám, cai quản đề đốc Thị quận công dưới thời vua Lê Dụ Tông (1740-1786). Đối với quê hương, hai ông đã để lại nhiều công lao đóng góp. Do đó, lăng mộ cũng như đền thờ hai ông được nhân dân thôn giữ gìn, hương khói, tôn kính là phúc thần của làng. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực
Nam Định 2063 lượt xem
Đình làng Vân Chàng tọa lạc trên địa phận tổ dân phố số 16, thôn Vân Chàng, thị trấn Nam Giang. Đình làng Vân Chàng là nơi thờ tự và tri ân công đức của nhân dân địa phương đối với Lục vị Tổ sư nghề rèn. Thần phả đình làng Vân Chàng cho biết, sáu vị tổ nghề đã cùng 15 vị tổ thuộc các dòng họ: Đoàn, Trần, Vũ, Nguyễn, Đỗ, Ngô... chiêu mộ nhân dân khai phá đồng ruộng, phát triển sản xuất và mở mang nghề nghiệp. Năm Quý Sửu (1373), đời vua Trần Duệ Tông, niên hiệu Long Khánh 2, sau khi truyền dạy nghề cho người dân nơi đây, sáu vị tổ lại trở về quê cũ làng Hoa Chàng (Hà Tĩnh) tiếp tục truyền dạy nghề rèn. Để tri ân công đức của các ông tổ nghề, nhân dân địa phương đã đặt tên làng là Hoa Chàng - quê gốc của các vị Tổ sư (đến thời Nguyễn đổi thành làng Vân Chàng); lập đền thờ tôn làm: Phúc thần - Lục vị Tổ sư - Đương cảnh Thành hoàng và lấy ngày 15 tháng 11 âm lịch là ngày sáu vị Tổ sư từ làng Vân Chàng trở về quê cũ làm ngày chính kỵ. Hiện tại đình làng Vân Chàng còn lưu giữ được 6 đạo sắc phong niên hiệu Khải Định 9 (1924) khẳng định công lao “Hộ quốc”, “Tý dân” và gia tặng Lục vị Tổ sư là: Dực bảo trung hưng linh phù Vân Sơn Thánh tổ. Ngoài các đạo sắc phong, thì đình làng Vân Chàng còn lưu giữ nhiều câu đối ca ngợi công lao và sự nghiệp của Lục vị tổ sư. Hiện nay, cùng với đình làng Vân Chàng, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định thờ Lục vị Tổ sư, ở các địa phương khác là Hà Tĩnh, thành phố Hồ Chí Minh đều có nơi thờ các vị Tổ sư nghề rèn. Nghề rèn ở làng Vân Chàng, thị trấn Nam Giang hình thành từ cuối thế kỷ XIV, tính đến nay đã gần 7 thế kỷ. Ban đầu, nghề rèn chỉ là nghề phụ bên cạnh sản xuất nông nghiệp. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, nghề rèn đã từng bước phát triển, tách khỏi nông nghiệp để đi sâu vào sản xuất chuyên môn hóa, trở thành nghề thủ công truyền thống. Năm 1426, khi nghĩa quân Lam Sơn tiến ra Bắc, một thanh niên người họ Đoàn đã đứng ra tập hợp dân làng đứng lên giết giặc, được phong Dũng tráng Đại tướng quân. Biết nơi đây có nghề rèn, Bình Định vương Lê Lợi đã giao cho dân làng nhiệm vụ rèn vũ khí cho nghĩa quân. Từ đó đến nay, nghề rèn Vân Chàng liên tục tồn tại và phát triển. Cũng trong thời kỳ chống giặc Minh xâm lược, một nhóm thợ Vân Chàng đã đến với nghĩa quân Lam Sơn dùng phương pháp rèn ra ống pháo lệnh bằng sắt. Loại pháo này là hiệu lệnh để nghĩa quân nhất tề vùng dậy tiêu diệt quân thù. Hiện nay, tại đình Vân Chàng vẫn còn lưu giữ được 2 pháo lệnh đúc bằng sắt. Thời Nguyễn, thợ rèn Vân Chàng đi lính, nhiều người được phong “Tượng mục”, có người được phong “Thủy bộ chư dinh Thủy mục” là người cầm đầu lính thợ sửa chữa vũ khí cho các doanh trại quân đội, bao gồm cả quân thủy và quân bộ. Khi giặc Pháp xâm lược Bắc kỳ, nhiều thợ Vân Chàng đứng trong hàng ngũ quân dân chống Pháp. Hơn 2.000 quân Cần Vương do Tiến sỹ Vũ Hữu Lợi (1836 - 1886) chỉ huy đóng tại làng Giao Cù (Đồng Sơn, Nam Trực, Nam Định), tất cả vũ khí đều do thợ rèn Vân Chàng sản xuất. Đến nay, trải qua gần 7 thế kỷ, từ nghề rèn thủ công truyền thống đã phát triển và lan tỏa mạnh mẽ, hình thành cụm công nghiệp cơ khí Nam Giang. Nghề rèn Vân Chàng và cơ khí Nam Giang đã và đang trở thành nền kinh tế mũi nhọn của địa phương, góp phần giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống, xây dựng kinh tế - văn hóa - xã hội địa phương ngày một phát triển. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, Đình làng Vân Chàng đã được xếp hạng di tích Lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 2018. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực
Nam Định 2047 lượt xem
Cột cờ Nam Định nằm trên đường Tô Hiệu thuộc phường Ngô Quyền - TP Nam Định. Thời xưa, Cột cờ Nam Định còn gọi là kỳ đài. Đây là một trong bốn cột cờ được xây dựng vào đầu thời Nguyễn. Cột cờ Nam Định được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 28 tháng 4 năm 1962. Cột cờ Nam Định ngày nay gồm ba phần chính là chân đế (phần bệ), thân cột (thân dài) và vọng canh (vọng lâu). Cột cờ Nam Định cao 23,84m; nằm ở phía nam Thành cổ, cách đình Vọng Cung (nay là chùa Vọng Cung) khoảng 100m. Sân Cột cờ xưa được xây thành sân hành lễ, hình vuông, có hàng lan can ở bốn cạnh. Phía nam đặt hai khẩu súng thần công. Phía đông có lư hương tưởng nhớ các liệt sỹ hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp để bảo vệ Cột cờ - Thành cổ vào các năm 1873 và 1883. Chân đế Cột cờ gồm hai bệ hình vuông. Bệ trên thu nhỏ lại so với bệ dưới. Xung quanh phía ngoài của hai mặt bệ đều xây lan can. Từ bệ dưới lên bệ trên đều có bậc lên xuống. Bốn mặt bệ đều xây lan can và trổ bốn cửa. Trên mặt bệ thứ hai, có cửa đi vào thân Cột cờ (thân đài). Trên cửa phía đông có hai chữ Nghênh húc (đón ánh ban mai); cửa phía nam có hai chữ Hướng quang (hướng theo đức sáng). Dưới bệ có Đền thờ Bà chúa Cột cờ - Giám thương công chúa Nguyễn Thị Trinh - liệt nữ đầu tiên, hy sinh trong trận quân xâm lược Pháp đánh chiếm thành Nam Định ngày 11-12-1873 (phát hiện khảo cổ học năm 2002 – Viện khảo cổ học Việt Nam – Lê Bá Ngọc). Thân cột cờ cao 12,65m thu nhỏ dần về phía trên với hai phần: Phần dưới xây hình trụ bát giác, phần trên xây hình tròn đường kính đáy 3,25m. Trong thân cột cờ có cầu thang xoáy trôn ốc, gồm 54 bậc đi lên vọng canh, được chiếu sáng bằng 32 ô cửa sổ hình hoa thị của tám mặt thân cột cờ. Phần vọng canh xây hình trụ tròn có hàng lan can, 4 cửa vòm và 8 ô cửa sổ nhỏ. Từ mặt vọng canh có thang sắt nhỏ lên đỉnh Cột cờ. Cột cờ xây bằng gạch nung già, màu đỏ sẫm. Các góc vuông của hai tầng bệ xây bằng một loại gạch chuyên một đầu vát 450, còn các góc 1200 của thân cột trụ bát giác là một loại gạch riêng. Cột cờ Thành Nam gắn liền với nhiều dấu ấn lịch sử quan trọng. Ngày 27/3/1883, tàu chiến của Pháp từ sông Đào bắn phá vào trong Thành. Tại cột cờ, ở độ cao 11m, về phía Nam còn một vết đạn cắm sâu vào 4cm, đường kính 6cm. Thời kỳ hoạt động bí mật, nhiều cán bộ, Đảng viên vẫn lấy Cột cờ làm nơi liên lạc và sinh hoạt để bàn kế chỉ đạo phong trào. Năm 1967, Nam Định bị máy bay Mỹ đánh phá ác liệt. Đỉnh Cột cờ là nơi tổ quan sát máy bay do đồng chí La Vĩnh Hào - tự vệ nhà máy Dệt chỉ huy làm nhiệm vụ viễn tiêu. Ngày 11-6-1972, máy bay Mỹ lao vào đánh phá thành phố Dệt. Vào hồi 10 giờ 10 phút sáng, chúng đã bắn rocket và ném bom trúng vào khu vực Cột cờ làm sập toàn bộ công trình kiến trúc cổ kính này. Năm 1997, kỷ niệm 43 năm ngày giải phóng thành phố Nam Định, Cột cờ đã được phục dựng lại nguyên dạng. Gần hai thế kỷ qua, cột cờ Thành Nam đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử, sự đổi thay của đất nước, quê hương. Đây là một công trình kiến trúc cổ, có giá trị lịch sử và văn hóa và còn là biểu tượng khơi dậy lòng yêu quê hương, đất nước, ý thức tự hào, quyết tâm sắt đá bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam. Hàng năm, nơi đây đón hàng trăm đoàn khách trong nước và quốc tế đến thăm quan và thắp hương tưởng nhớ Bà chúa Cột cờ. Năm 1962, Cột cờ Nam Định đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Nguồn: Di tích lịch sử văn hoá
Nam Định 2031 lượt xem
Chùa Đại Bi thuộc thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Chùa ngoài thờ Phật còn thờ Thánh Từ Đạo Hạnh. Qua các tư liệu Hán Nôm cho biết. Thánh Thiền sư Từ Đạo Hạnh họ Từ, huý là Lộ; Cha là Từ, huý Vinh... quê ở làng Láng, làm chức Tăng Quan Đô Sát. Tuổi nhỏ có nhiều điểm khác thường, có cốt khí tiên phật, hào hiệp phóng khoáng, có chí lớn, phàm việc làm lời nói không ai đoán trước được. Ông kết bạn thân với nho sĩ Phí Sinh, đạo sĩ Lê Toàn Nghĩa và người kép hát là Vi Ất (có tài liệu nói là Phí Ất). Ban đêm ông miệt mài đọc sách, ban ngày đá cầu, thổi sáo, đánh bạc vui chơi. Cha ông bị Diên Thành hầu nhờ Đại Điên dùng phép thuật giết chết. Thánh đi trả thù không thành, tìm đường sang Tây Trúc học phép thuật, đường đi đến nước Kim Xỉ gian nan, bèn bỏ về núi Phật Tích tu luyện, đọc chú Đà La Ni mười vạn tám ngàn lần, hoàn thành đạo pháp, tìm Đại Điên trả thù. Từ đó rửa sạch oán thù, sư đi khắp nơi trong chốn tùng lâm tìm thầy ấn chứng. Thánh đã gặp Thiền sư Trí Huyền và Thiền sư Sùng Phạm để học hỏi, mở rộng kiến văn. Sau đó sư đầu thai làm con Sùng Hiền Hầu, về sau là vua Lý Thần Tông. Chùa Đại Bi tọa lạc trên một khu đất rộng bằng phẳng có kiến trúc độc đáo. Theo truyền thuyết, khu đất của chùa có thế đầu rồng. Hai bên cửa chùa có hai giếng nước tròn người dân nơi đây vẫn quen gọi là hai mắt rồng. Hệ thống kiến trúc của chùa có nhiều nét độc đáo. Tam Quan (cổng chùa) không nằm chính giữa mà được xây dựng chếch về phía đông. Tuy đã trải qua nhiều lần trùng tu đến nay Tam quan vẫn còn giữ lại nhiều nét chạm khắc thời Hậu Lê (thế kỷ 17 - 18). Trong chùa bài trí các tượng phật như mọi ngôi chùa Việt Nam khác. Điều khác biệt ở chùa Đại Bi là phía phải Tam bảo có khám thờ Thánh tổ Từ Đạo Hạnh và Giác Hải Thiền sư là những người có nhiều công lao với phật pháp nước nhà. Ở lĩnh vực phật giáo các thiền sư được coi là những thánh tăng; trên lĩnh vực xã hội được coi là những thành hoàng làng, người có công lao truyền dạy nghề cho dân… Các pho tượng ở chùa Đại Bi được tạc khá hoàn mỹ. Ngoài ra còn nhiều đồ thờ và câu đối có giá trị về lịch sử và nghệ thuật. Sau chùa có gác chuông kiến trúc kiểu chuông diêm, 8 mái với các đầu đao vút cao mềm mại thanh thoát. Đây là công trình có giá trị nhất của chùa Đại Bi. Sau gác chuông là nhà thờ tổ, nơi thờ đức Bồ Đề Đạt Ma vị tổ thứ 28 và là vị sư tổ của phái thiền. Chùa Đại Bi còn có gian thờ Mẫu, một tín ngưỡng dân tộc mà người dân Việt Nam hằng thực hiện từ bao đời nay. Chùa Đại Bi còn lưu giữ được nhiều di vật, cổ vật, cổ thư rất có giá trị, tiêu biểu nhất là 10 tấm bia trong đó Văn bia cổ nhất khắc năm Kỉ Mùi (1679) đời Lê Hy Tông; 10 đạo sắc phong; Quả chuông lớn cao 2m đúc năm Minh Mạng thứ 18 (1838). Tín ngưỡng thờ Thánh Từ Đạo Hạnh trên mảnh đất Nam trực, cùng với kiến trúc chùa Đại Bi độc đáo, chùa trăm gian, thuần Việt nở rộ vào thế kỷ 17 và tồn tại đến tận ngày nay, thể hiện sức sống trường tồn của dân tộc Việt. Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và kiến trúc nghệ thuật chùa Đại Bi được xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1964. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Nam Trực
Nam Định 1942 lượt xem