Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Thanh Hóa là vùng đất địa linh nhân kiệt, đã sản sinh ra biết bao anh hùng và lưu giữ nhiều dấu ấn lịch sử hào hùng. Nơi đây không chỉ là cái nôi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn là thánh địa linh thiêng của triều Hậu Lê, chứa đựng những giá trị văn hóa và truyền thống quý báu. Một hành trình khám phá 27 di tích lịch sử ở Thanh Hóa cùng 63Stravel sẽ mang đến cho du khách những trải nghiệm ý nghĩa và khó quên.
Cùng lưu lại danh sách các di tích lịch sử ở Thanh Hóa để có chuyến trải nghiệm khám phá các điểm đến lý tưởng, mang giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc ta.
Đền Đồng Cổ là một trong những di tích lâu đời và linh thiêng nhất xứ Thanh, gắn liền với nhiều huyền thoại và dấu ấn lịch sử của dân tộc. Tương truyền, đền được xây từ năm 2569 TCN và thờ thần Đồng Cổ, vị thần có công lớn trong việc phò vua giúp nước, bảo vệ bờ cõi.
Qua nhiều triều đại như Tiền Lê, Lý, Trần – Hồ và Hậu Lê, thần Đồng Cổ được tôn vinh vì các lần hiển linh báo mộng, giúp dẹp loạn, bảo vệ đất nước. Đặc biệt, vào thời Lý, sau khi thần hiện mộng giúp Lý Phật Mã chiến thắng giặc và dẹp loạn Tam vương, vua Lý Thái Tông đã cho rước thần về Thăng Long lập đền thờ.
Đền Đồng Cổ - Điểm đến tâm linh ở tỉnh Thanh Hóa
Đền Đồng Cổ cũng là nơi diễn ra nhiều nghi lễ quan trọng của triều đình và ngày nay vẫn còn lưu giữ những sắc phong, thần tích quý giá. Kiến trúc đền mang đậm nét cổ kính, với nhà tiền đường, trung đường và hậu cung dựa lưng vào vách núi.
Đặc biệt, trống đồng – biểu tượng linh thiêng của đền – được đặt trang trọng tại nhiều vị trí. Trước đền là hồ Bán Nguyệt trong xanh, cùng với ba ngọn núi bao quanh và dòng sông Mã chảy phía sau, tạo nên khung cảnh hài hòa và thiêng liêng.
Ngoài đền chính ở Đan Nê, còn có ba đền Đồng Cổ khác tại Hà Nội và Thanh Hóa. Lễ hội đền Đồng Cổ vẫn được tổ chức vào ngày 15/3 âm lịch, mang đậm nét truyền thống và thu hút đông đảo người dân về tham dự.
Nghè Mỹ Lộc còn gọi là Đền thờ Nguyễn Phục, là một di tích mang đậm giá trị tâm linh của người dân làng Mỹ Lộc, xã Định Tiến, Thanh Hóa. Theo hương ước làng lập năm 1847, dân làng đã rước chân hương từ đền thờ Đông Hải Đại Vương Nguyễn Phục ở Quảng Xương về thờ làm Thành hoàng.
Di tích lịch sử Đền Nguyễn Phục
Nguyễn Phục là vị quan tài năng quê Hải Dương, đỗ Hoàng giáp dưới triều Lê Nhân Tông và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng. Dù có công lớn trong việc đánh giặc và trấn giữ cửa biển, ông bị xử oan vì chậm vận lương trong chiến dịch năm 1470.
Sau khi mất, vua Lê Thánh Tông truy tặng sắc phong và nhiều đền được lập để tưởng nhớ ông. Đền Nguyễn Phục không chỉ tôn vinh tấm lòng trung nghĩa của vị anh hùng mà còn giáo dục thế hệ trẻ về đạo đức và tài năng. Năm 1999, đền được xếp hạng di tích cấp tỉnh, trở thành điểm tựa tâm linh và niềm tự hào của người dân Mỹ Lộc.
Nằm ở chân núi Trường Lệ, phường Trường Sơn, Sầm Sơn, Thanh Hóa, đền Hoàng Minh Tự (còn gọi là đền Hạ hoặc đền Đệ Tam) thờ vị thần Hoàng Minh Tự – biểu tượng của lòng trung nghĩa và tinh thần đoàn kết. Thần vốn là người Bách Việt di cư từ Nam Hoàng Hà, Trung Quốc đến định cư tại Thanh Hóa. Vào thời nhà Trần (1373-1377), khi Chiêm Thành xâm lược, ông theo vua Trần ra trận, đảm nhận việc vận chuyển quân lương và được phong danh hiệu “Minh Tự” sau chiến thắng.
Đền Hoàng Minh Tự có kiến trúc kiểu chuôi vồ, gồm ba phần chính: tiền đường, trung đường và hậu cung. Dù nhiều hiện vật cổ đã thất lạc, đền vẫn lưu giữ được các bảo vật như sắc phong, kiệu song loan, áo chầu và bức đại tự “Tối linh từ” (nghĩa là “Đền rất thiêng”). Những hiện vật này đang được bảo quản tại đền Độc Cước chờ ngày rước về.
Trải qua nhiều lần trùng tu, gần nhất vào năm 1928, đền trở thành nơi thờ chính trong hệ thống sáu ngôi đền thờ thần Hoàng Minh Tự ở Thanh Hóa. Với giá trị lịch sử và tâm linh sâu sắc, ngôi đền là biểu tượng của sự hy sinh, đoàn kết và lòng nhân ái. Người dân nơi đây luôn tự hào về di sản này, coi đó là nguồn cảm hứng để sống tốt đẹp, xây dựng cuộc sống an lành và bền vững cho thế hệ mai sau.
>> Tham khảo thêm: Top 9+ làng nghề truyền thống ở Thanh Hóa còn “giữ lửa” đến nay
Trên đường từ Đền Độc Cước đến Đền Cô Tiên, du khách sẽ bắt gặp hai hòn đá lớn chồng lên nhau, dù chông chênh nhưng kỳ lạ thay, chúng vẫn trường tồn qua năm tháng. Nằm trên núi Trường Lệ, Hòn Trống Mái nổi tiếng không chỉ bởi tạo hình độc đáo tựa như cặp gà trống mái tựa đầu vào nhau, mà còn bởi câu chuyện tình yêu biểu tượng ẩn chứa đằng sau.
Hòn Trống Mái Sầm Sơn - Truyền thuyết về tình yêu vĩnh cửu
Với vị trí đắc địa – trước mặt là bãi biển nhộn nhịp, sau lưng là thành phố yên bình – địa danh này thu hút du khách tìm về check-in và chiêm ngưỡng.
Từ năm 1962, Hòn Trống Mái đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia và lễ hội Tình Yêu tổ chức hàng năm càng làm tăng thêm sức hấp dẫn cho địa điểm này. Giữa khung cảnh thơ mộng, hình ảnh ba khối đá nằm chênh vênh nhưng vẫn vững chãi tạo nên cảm giác vừa hùng vĩ vừa trữ tình, khiến nơi đây trở thành điểm dừng chân không thể bỏ lỡ trong hành trình khám phá Sầm Sơn.
Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh (còn gọi là chùa Duy Tinh) được xây dựng lại trên nền một ngôi chùa cổ sau sự kiện vua Lý Nhân Tông trở về kinh đô. Nhằm tỏ lòng biết ơn vua và cầu chúc quốc vận thịnh vượng, quan Thông giám họ Chu đã tổ chức xây dựng chùa với sự đóng góp về kinh phí và công sức từ nhân dân địa phương. Huyện lệnh Lê Chiếu được giao trách nhiệm giám sát trực tiếp công trình này.
Trải qua hơn tám thế kỷ, kiến trúc nguyên bản của chùa đã biến dạng sau nhiều lần trùng tu. Nhưng một số di vật quý vẫn được lưu giữ, bao gồm ba bệ sen bằng đá và tấm bia đá thời Lý dựng năm 1118 – một minh chứng lịch sử vô giá dù đã chịu tổn hại trong chiến tranh. Hiện nay, chùa có bốn gian hậu cung thờ Phật, năm gian tiền đường thờ Lý Thường Kiệt, cùng với nhiều pho tượng gỗ và hiện vật nội thất thời Lý – Trần được bảo tồn tương đối nguyên vẹn.
Nhờ sự quan tâm của Nhà nước và sự đóng góp của nhân dân từ năm 1990, chùa đang dần khôi phục lại vẻ đẹp nguyên sơ và trở thành một điểm đến hấp dẫn du khách trong nước. Với giá trị lịch sử và kiến trúc độc đáo, chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh xứng đáng là trọng điểm trong tuyến du lịch từ thành phố Thanh Hóa đi Hậu Lộc mang đến cho du khách những trải nghiệm vừa thiêng liêng vừa giàu ý nghĩa văn hóa.
Chùa Khải Nam (còn gọi là chùa Ải hay chùa Dặc) tọa lạc tại phường Quảng Tiến, thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Chùa được xây dựng lại từ thời Trần, trên một vùng đất phong thủy đẹp, nơi giao hòa giữa sông Lạch Trào và biển cả.
Ban đầu, chùa chỉ được dựng bằng tranh tre nứa lá và các tượng đất đơn sơ. Nhưng đã trải qua nhiều lần tu bổ, với lần lớn nhất vào năm 1869 theo phong cách kiến trúc thời Lê.
Khám phá ngôi chùa Khải Nam có số phận đặc biệt nhất ở Thanh Hóa
Trong thời chiến, chùa bị tháo dỡ, nhiều hiện vật bị thất lạc, chỉ còn lại cây si cổ 300 tuổi được dân làng chăm sóc như báu vật. Đến năm 1994, ngôi chùa được phục dựng với sự đóng góp của nhân dân và Phật tử. Chùa hiện nằm trong khuôn viên đền Cá Lập nhưng quy mô vẫn chưa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng địa phương.
Chùa Khải Nam được công nhận là Di tích Lịch sử – Văn hóa cấp tỉnh năm 1999 và từ năm 2007, Đại đức Thích Nguyên Thanh đã được bổ nhiệm trụ trì. Chính quyền địa phương đang lên kế hoạch xây dựng lại chùa ở vị trí mới, khang trang hơn. Lễ hội đền Cá Lập cùng các lễ hội khác ở Sầm Sơn cũng góp phần tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng cho vùng đất du lịch này.
Đền thờ An Dương Vương (còn gọi là Đền Cổ Loa hoặc đền Thượng) nằm ở trung tâm thành Cổ Loa, thuộc xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội. Đây là nơi thờ vua An Dương Vương, người sáng lập nước Âu Lạc – nhà nước thứ hai trong lịch sử Việt Nam. Được xây dựng từ năm 1687 dưới thời Lê và trùng tu năm 1893, đền mang ý nghĩa lịch sử, văn hóa sâu sắc và đã được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt năm 2012.
Đền Cổ Loa thu hút du khách không chỉ nhờ giá trị tâm linh mà còn bởi kiến trúc cổ kính, độc đáo. Trên nền đất cao, công trình chính gồm tiền đường, thượng điện và hậu cung, nơi đặt tượng vua An Dương Vương bằng đồng nặng 255kg. Điểm nhấn kiến trúc còn có cổng tam quan bề thế và nhà bia phương đình 8 mái thanh thoát.
Với vị trí quan trọng trong di sản văn hóa, đền Cổ Loa không chỉ tôn vinh công lao của cha ông trong dựng nước, giữ nước mà còn đóng vai trò giáo dục thế hệ trẻ về trách nhiệm bảo tồn truyền thống dân tộc. Đây cũng là điểm đến hấp dẫn cho du khách khám phá văn hóa lịch sử Hà Nội.
Khi đặt chân đến Sầm Sơn, du khách không thể bỏ qua Đền Cá Lập (phường Quảng Tiến), nơi thờ Tây Phương tướng quân Trần Đức, một vị anh hùng có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ vào thế kỷ XIII. Theo các tài liệu lịch sử, khi nhân dân Đại Việt đang sống trong hòa bình thì địch từ Bắc tiến vào gây ra cảnh tan hoang.
Thanh Hóa trở thành chiến trường quan trọng và tại Cửa Hới, Tây Phương tướng quân đã thể hiện sự dũng cảm, tài ba của mình trong trận đánh quyết liệt để bảo vệ quân đội và nhà Trần. Để tri ân công lao của Ngài, triều đình nhà Trần đã sắc phong và giao cho nhân dân làng Cá Lập dựng đền để thờ phụng.
Đền Cá lập – Đền thờ Tây Phương tướng quân Trần Đức
Đến thời Trần Thánh Tông, Ngài được phong tặng danh hiệu Tây Phương đại tướng quân với nhiều sắc phong vinh danh khác. Dù trải qua thời gian và biến cố, đền vẫn lưu giữ 9 đạo sắc phong và nhiều hiện vật có giá trị.
Với không gian linh thiêng, vị trí đắc địa bên bờ biển và lịch sử lâu đời, Đền Cá Lập đã trở thành một điểm đến hấp dẫn cho du khách khi tới Sầm Sơn. Nơi không chỉ để tưởng nhớ vị anh hùng mà còn để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên của vùng biển.
Bắc Giang là mảnh đất linh thiêng, đã sản sinh ra nhiều anh hùng và bậc hiền tài trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Nổi bật trong các dấu ấn lịch sử là thành Xương Giang - một di tích lịch sử đặc biệt cấp Quốc gia, nơi ghi dấu những trận đánh oanh liệt của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh vào thế kỷ XV.
Thành cổ Xương Giang được xây dựng từ năm 1407, có kiến trúc độc đáo với hình chữ nhật, dài 600m và rộng 450m, được bao quanh bởi hào rộng, là biểu tượng cho tinh thần yêu nước và lòng kiên cường của nhân dân. Thành Xương Giang đã chứng kiến chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam Sơn do Trần Nguyên Hãn chỉ huy, khi họ đập tan âm mưu xâm lược của 10 vạn quân Minh, góp phần xác định độc lập cho đất nước vào thế kỷ XV.
Đến nay, Xương Giang không chỉ là di tích lịch sử quan trọng mà còn là điểm du lịch hấp dẫn cho những ai yêu thích khám phá lịch sử. Tại đây, du khách sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng những công trình kiến trúc cổ kính như giếng Phủ, nghi môn… đồng thời cảm nhận được tinh thần yêu nước mãnh liệt của thế hệ cha ông.
Chùa Hưng Phúc (hay còn gọi là chùa Kênh) tọa lạc tại xã Quảng Hùng, TP Sầm Sơn, là một di tích lịch sử mang giá trị văn hóa sâu sắc. Được xây dựng vào năm 1324 dưới triều vua Trần Minh Tông, chùa thờ Phật và Thượng tướng Lê An – người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông.
Nơi đây nổi bật với tấm bia cổ duy nhất ghi chép về một "hương" chiến đấu dưới thời Trần, ghi dấu chiến thắng của quân dân Đại Việt do tướng Lê Mạnh chỉ huy. Tấm bia cao 1,5m, được chạm khắc tinh xảo với hình ảnh rồng uốn khúc và hoa văn cổ điển, đã được công nhận là di tích cấp Quốc gia vào năm 1995.
Sự hủy diệt của quân Minh không thể xóa nhòa giá trị lịch sử của nơi này; ngược lại, chùa Kênh tiếp tục thu hút du khách tìm hiểu về một thời kỳ hào hùng của dân tộc, khơi dậy lòng tự hào và niềm tin vào sức mạnh của tinh thần Việt. Chùa Kênh không chỉ là nơi tưởng niệm công lao của những vị anh hùng, mà còn là biểu tượng cho tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước.
Nằm trên gò đất cao tại Làng Trung, Đền Đề Lĩnh mang trong mình nhiều giá trị lịch sử và văn hóa. Tương truyền, đây là nơi an táng của Đề Lĩnh – một võ tướng tài ba thời Vua Lê Tương Dực, người đã góp công lớn trong việc bảo vệ đất nước khỏi giặc ngoại xâm. Đền có diện tích 1100m², hướng tây nam, phía trước là cánh đồng lúa xanh mướt và dòng sông Đơ hiền hòa chảy về biển.
Với tài năng và đức độ, Đề Lĩnh từng là tứ trụ triều đình nhưng bị Vua Tương Dực lo ngại nên đã bị đẩy đi canh giữ vùng cửa biển hoang vu. Tại đây, ông đã khai hoang, lập trại, rèn luyện võ nghệ cho dân làng, trở thành tổ nghề võ vật Lương Trung.
Khi hay tin về những công lao của ông, vua đã cho đào sông Đơ nhằm cô lập Đề Lĩnh, nhưng việc này dẫn đến tai họa cho đất nước. Trong cuộc chiến chống quân Minh, Đề Lĩnh cùng hai cô con gái đã chiến đấu anh dũng đến hơi thở cuối cùng, được chôn cất tại nơi ông đã gầy dựng.
Đền Đề Lĩnh hiện còn lưu giữ 8 sắc phong quý giá cùng bia ký, khánh đá, và đôi rồng thời Lê. Hằng năm, vào ngày 17 tháng Giêng, nhân dân tổ chức lễ tế và hội đấu vật để tưởng nhớ công lao của ông. Đền đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1993, tiếp tục là nơi lưu giữ tấm lòng thành kính của dân làng đối với vị anh hùng dân tộc và tổ nghề võ vật.
Ẩn mình dưới chân núi Kiếm Lĩnh, đền Tô Hiến Thành không chỉ là điểm tựa của lòng thành kính mà còn là nơi lưu giữ tinh hoa văn hóa và dấu ấn lịch sử hơn 800 năm. Ngôi đền còn được biết đến với cái tên "Đền Đệ Nhị" hay "Đền Trung", nằm giữa cụm di tích danh thắng núi Trường Lệ cùng đền Độc Cước, đền Cô Tiên và Hòn Trống Mái, tất cả cùng tạo nên một không gian thiêng liêng và cổ kính giữa lòng thiên nhiên hùng vĩ.
Đền hướng mặt về phía làng Sầm Thôn nhộn nhịp còn lưng tựa vào vách đá, tựa như biểu tượng của sự vững vàng trước dòng chảy thời gian. Bước qua cổng tam quan, khách hành hương được chào đón bởi không gian thoáng đãng, tán cây cổ thụ mát rượi của bàng, si và những cây gạo trăm tuổi. Cảm giác thanh bình và tĩnh lặng bao trùm, khiến mọi muộn phiền như tan biến trước vẻ đẹp dung dị của cảnh vật.
Đền Tô Hiến Thành - Nơi tôn thờ sự thanh liêm chính trực
Đền được thiết kế với cấu trúc chữ Đinh gồm ba cung: Bái đường, Trung đường và Hậu cung. Mỗi cung mang một vai trò và sắc thái riêng, tạo nên không gian tâm linh đậm chất truyền thống. Trong đó, Trung đường – nơi đặt tượng Tô Hiến Thành – gợi nhớ về hình ảnh vị tướng tài ba, người đã dốc lòng vì dân vì nước. Không gian bên trong đền với ánh sáng mờ ảo và những làn gió thoảng qua các khe cửa vòm, đem lại cảm giác linh thiêng khó tả.
Trải qua nhiều biến động lịch sử, đền vẫn giữ được nhiều hiện vật quý như các sắc phong cổ, tượng, chuông, nhang án và bộ lỗ bộ – minh chứng cho những thời kỳ vàng son của dân tộc. Đây không chỉ là nơi cầu tài, cầu lộc mà còn là nơi gửi gắm niềm tin về sự ngay thẳng, học hành thành đạt và cuộc sống bình an.
Từ năm 1994 đến nay, nhiều lần trùng tu đã giúp đền bảo toàn giá trị kiến trúc nguyên bản thời Nguyễn. Tuy nhiên, so với các di tích khác như đền Độc Cước và đền Cô Tiên, đền Tô Hiến Thành còn ít được biết đến. Chính quyền Sầm Sơn không ngừng đẩy mạnh công tác quảng bá, để ngôi đền linh thiêng này có thể lan tỏa rộng rãi, trở thành điểm đến hấp dẫn cho những ai muốn tìm về nguồn cội văn hóa và chiêm nghiệm lịch sử.
Được xây dựng trên thế đất hình con voi với giếng nước như mắt voi và lối vào tựa ngà voi, đền không chỉ gây ấn tượng bởi kiến trúc hài hòa mà còn bởi sự gắn bó mật thiết với cảnh quan thiên nhiên. Trước mặt đền là dòng Hoàng Long uốn lượn, tạo nên một bức tranh thơ mộng mà tĩnh lặng, như thể thời gian nơi đây đã ngưng đọng, chỉ để lại những âm vang của quá khứ và lời nhắc nhở về công đức của vị Thái úy Tô Hiến Thành.
Đền Tô Hiến Thành không chỉ đơn thuần là di tích lịch sử mà còn là biểu tượng của sự trung liệt và tinh thần phụng sự dân tộc. Trong mỗi viên gạch, bức hoành phi hay bia đá, người ta vẫn cảm nhận được bóng dáng của một thời kỳ vàng son đã qua – một điểm đến không thể bỏ qua trên hành trình khám phá những giá trị văn hóa và tâm linh của vùng đất cổ Hoa Lư.
Nằm ở cuối dãy núi Trường Lệ, đền Cô Tiên nổi bật với vị thế thoáng đãng và phong cảnh hữu tình, thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan mỗi khi ghé thăm Sầm Sơn. Ngôi đền được xây dựng từ thời Lý với kiến trúc cổ đặc trưng hình chữ Đinh gồm ba gian: Tiền Đường, Trung Đường và Hậu Cung.
Trải qua nhiều biến cố và tác động của thời gian, ngôi đền đã được trùng tu nhiều lần nhưng vẫn giữ được vẻ cổ kính nguyên bản. Đợt trùng tu lớn nhất vào năm 2010 đã được thực hiện bằng nguồn công đức của nhân dân và du khách thập phương, bảo tồn giá trị văn hóa tâm linh quý giá nơi đây.
Không chỉ có đền chính, quần thể di tích còn bao gồm Đền Trình - Quan Giám, Miếu lộ thiên Nam Hải Đại Vương và Miếu Cô Chín, tạo nên một không gian đậm chất huyền thoại. Trong Hậu Cung, bàn thờ Tam Tòa Thánh Mẫu linh thiêng với sự hiện diện của Thánh mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Thánh mẫu Thoải càng làm tăng thêm sức hút tâm linh cho điểm đến đặc biệt này.
Đền Cô Chín (còn gọi là đền Chín Giếng) mang trong mình truyền thuyết đầy cuốn hút về người con gái thứ chín của Ngọc Hoàng Đại Đế – Cửu Thiên Huyền Vũ. Nàng không chỉ thông minh và tài hoa mà còn có khả năng nhìn thấu tâm tư và tính cách qua khuôn mặt của mỗi người. Đặc biệt, cô Chín sở hữu tài bói toán siêu phàm, dự đoán chuẩn xác mọi việc. Với tấm lòng đồng cảm sâu sắc, cô thường dùng phép tiên để chữa bệnh và giúp đỡ dân làng, khiến người dân tôn kính và lập miếu thờ cô tại ngôi đền thiêng này.
Được xây dựng từ cuối thế kỷ XVIII và đã qua nhiều lần trùng tu, lần đầu vào năm 1939 và mới nhất vào năm 2004. Truyền thuyết kể rằng, trong thời chiến loạn, chúa Liễu Hạnh từng biến thành rồng để trốn tránh nguy hiểm tại nơi ở của Cửu Thiên Công Chúa. Nhờ phép màu của cô Chín, Liễu Hạnh thoát hiểm và từ đó họ trở thành tri kỷ. Tại nơi này xuất hiện chín giếng thiêng và người dân đã dựng đền ngay bên cạnh để ghi nhớ công ơn của cô.
Ngày nay, đền Cô Chín không chỉ là chốn linh thiêng mà còn là địa điểm văn hóa gắn bó mật thiết với đời sống tâm linh của người dân Thanh Hóa. Mọi lễ hội và nghi lễ quan trọng trong vùng đều được tổ chức tại đây, tạo nên một không gian tràn đầy niềm tin và linh khí. Được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử quốc gia từ năm 1993, đền Cô Chín là điểm đến không thể bỏ qua trong hành trình khám phá những giá trị văn hóa – tâm linh đặc sắc của xứ Thanh.
Đền Độc Cước nằm uy nghi trên hòn Cổ Giải, gắn liền với truyền thuyết về Thần Độc Cước – vị thần một chân với sức mạnh phi thường, được dân gian tôn xưng là “Độc Cước sơn tiêu” và “Độc Cước chân nhân thượng thượng đẳng thần”. Ngôi đền này hướng Tây Nam để tránh bão biển như đứng đầu sóng ngọn gió, bảo vệ bình yên cho đất và người nơi đây.
Lối lên đền trải đá phiến với 49 bậc thang, hai bên có miếu thờ Sơn Thần và Thổ Thần. Kiến trúc của đền mang hình chữ Đinh, đậm nét nghệ thuật thế kỷ XVII, với tiền đường 5 gian rộng rãi, nội thất chạm trổ tinh xảo hình Long – Ly – Quy – Phượng, và những bức đại tự như “Thánh cung vạn tuế” tôn vinh thần linh.
Đền Độc Cước – Điểm du lịch tâm linh nổi tiếng ở Sầm Sơn
Hậu cung đặt tượng bán thân Thần Độc Cước – một tác phẩm nghệ thuật bằng gỗ, sơn đen, khắc họa dáng vẻ uy nghiêm của thần. Nơi đây còn lưu giữ dấu chân thiêng của Ngài, biểu tượng cho lần thần nhập thế cứu dân. Không gian đền còn nổi bật với bức tượng đá Chăm cổ, khắc họa hình người quỳ chắp tay, toét miệng cười hồn nhiên mà đầy thuần phục.
Từ đền nhìn ra xa, du khách có thể phóng tầm mắt bao quát toàn bộ bãi biển Sầm Sơn thơ mộng kéo dài đến cửa Lạch Trào. Sân đền được che phủ bởi cây bàng cổ thụ trăm tuổi, tỏa bóng mát yên bình. Phía Tây Nam là phủ Mẫu, nơi thờ tam tòa Thánh Mẫu, mang đến không gian tâm linh sâu sắc. Đứng tại đây, ta nghe tiếng sóng vỗ vách đá như lời tâm sự của muôn loài, gửi gắm về vị thần Độc Cước thiêng liêng và bất diệt.
Với vị thế đặc biệt và giá trị lịch sử, Đền Độc Cước đã được xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt vào năm 2019, trở thành điểm dừng chân không thể bỏ lỡ trong hành trình khám phá danh thắng Sầm Sơn.
Chiến khu Ba Đình từng là một căn cứ quân sự trọng yếu trong cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp (1886 – 1887). Được xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê, tên gọi Ba Đình bắt nguồn từ ba ngôi đình lớn trong mỗi làng. Nằm giữa vùng đồng chiêm trũng, vào mùa nước nổi, cả ba làng như tách biệt hoàn toàn với bên ngoài, trở thành vị trí chiến lược cho cuộc kháng chiến.
Các sĩ phu yêu nước như Đinh Công Tráng và Phạm Bành đã chọn nơi đây làm căn cứ, huy động dân làng xây dựng thành lũy kiên cố. Những lũy tre dày đặc, hệ thống hầm hào và thành đất vững chắc được thiết lập để chống lại hỏa lực của quân Pháp. Chiến khu không chỉ là nơi chiến đấu mà còn là trung tâm sản xuất và hậu cần, đảm bảo lương thực và an toàn cho nghĩa quân.
Với vị trí chiến lược kiểm soát giao thông từ Bắc vào Nam, chiến khu Ba Đình đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn quân địch và hỗ trợ các căn cứ kháng chiến khác. Tinh thần bất khuất và công lao của chiến khu đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử dân tộc, đến mức Bác Hồ đã chọn tên “Ba Đình” để đặt cho quảng trường lịch sử tại Hà Nội.
Dù được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1992, chiến khu Ba Đình ngày nay chỉ còn lại một vài dấu tích, nằm bên khuôn viên trường THCS Ba Đình. Không gian nơi đây chưa được bảo tồn đúng mức, tạo cảm giác hoang vắng, chỉ có tấm bia ghi dòng chữ “Di tích lịch sử văn hóa căn cứ khởi nghĩa Ba Đình” như nhắc nhở về quá khứ hào hùng của vùng đất này.
Nằm tại phường Nam Ngạn, thành phố Thanh Hóa, đền thờ Chu Văn Lương (còn gọi là đình làng Nam Ngạn) là nơi ghi dấu công lao của quan Đốc học Chu Văn Lương – một danh nhân lỗi lạc thời Trần. Ông không chỉ có công dạy chữ, bốc thuốc chữa bệnh, mà còn khai phá vùng đất, lập nên ấp Nam Sơn và trại Nam Ngạn. Ông cũng tổ chức nhân dân chống giặc Nguyên Mông, góp phần bảo vệ quê hương trong thế kỷ XIII. Sau khi qua đời, vua Trần sắc phong ông là “Thượng đẳng Phúc thần”, giao cho dân làng Nam Ngạn gìn giữ, tôn ông làm Thành Hoàng làng và tổ chức cúng tế hàng năm.
Ban đầu, ngôi đền được xây dựng ngoài đê sông Mã. Đến năm 1723, dưới triều vua Lê Dụ Tông, đền được di chuyển về vị trí hiện tại, cùng với chùa Mật Đa. Qua nhiều triều đại, ngôi đền liên tục được tu sửa và triều đình ban thêm sắc phong, mỹ tự, thể hiện lòng tôn kính đối với Chu Văn Lương. Đến năm 1989, đền được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia.
Đền hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá như sắc phong, ngai thờ, bài vị, bảng văn, bia đá… Đặc biệt, các mảng chạm khắc tinh xảo mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn (thế kỷ XIX) vẫn được bảo tồn nguyên vẹn. Hàng năm, lễ hội đền Chu Văn Lương diễn ra vào ngày sinh 18/2 và ngày giỗ 12/9 âm lịch, với nhiều trò chơi và diễn xướng dân gian, thu hút đông đảo người dân và du khách.
Khuôn viên đền rộng 0,142 ha, nằm ở vị trí phía bắc giáp đường ngõ Đúc Tiền, phía nam giáp chùa Mật Đa, và hai bên đông – tây giáp khu dân cư. Đây không chỉ là nơi sinh hoạt tâm linh mà còn là không gian lưu giữ ký ức hào hùng về người anh hùng đã cống hiến cả đời cho quê hương và đất nước.
Chùa Mật Đa là một trong những di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia được công nhận vào năm 1989. Ban đầu, chùa được xây dựng vào năm 1723 (đời Bảo Thái, triều Hậu Lê) ngoài đê sông Mã, chỉ đơn sơ với nhà tranh vách đất và tượng Phật đất nung. Người đầu tiên trụ trì là Hòa thượng Tuệ Minh, một danh sư nổi tiếng từ chùa Đại Khánh, Thanh Hóa.
Chùa Mật Đa - ngôi chùa cổ kính xứ Thanh
Chùa mang kiến trúc chữ “Đinh” đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ, gồm 5 gian tiền đường và 2 gian hậu cung, nơi đặt tượng Phật và bài trí tượng pháp đầy đủ. Đặc biệt, hai tượng hộ pháp cao hơn 3m, tượng trưng cho tinh thần khuyến thiện và trừ ác, là nét độc đáo của chùa. Sau nhiều lần trùng tu, kiến trúc nơi đây trở thành sự giao thoa hài hòa giữa phong cách Trần, Lê và Nguyễn.
Không chỉ là nơi thờ tự linh thiêng, chùa Mật Đa còn in đậm dấu ấn lịch sử thời chiến. Vào ngày 26/5/1965, khi diễn ra trận chiến ác liệt tại khu vực Hàm Rồng, các nhà sư của chùa đã mở cửa đón thương binh và tiến hành khâm liệm liệt sĩ theo nghi thức Phật giáo. Sư cụ Thích Đàm Xuân cùng các đệ tử tích cực hỗ trợ quân dân bằng cách dỡ nhà làm hầm trú ẩn, lấy cánh cửa chùa làm cáng thương, và chặt dừa cho bộ đội giải khát. Chùa khi ấy trở thành sở chỉ huy, nơi tập kết lương thực và cứu thương cho lực lượng bảo vệ cầu Hàm Rồng.
Thái Miếu nhà Hậu Lê là một trong những công trình cổ kính và uy nghi bậc nhất xứ Thanh. Được xây dựng vào năm 1805 dưới thời vua Gia Long, miếu được chuyển từ Thăng Long về đất Bố Vệ sau khi bị hỏa hoạn. Công trình này trải rộng trên diện tích hơn 4.200 m², với lối kiến trúc đặc sắc gồm Tiền điện và Hậu điện, mái ngói mũi hài trang trí "lưỡng long chầu nguyệt".
Nơi đây không chỉ lưu giữ bài vị của 27 vị vua nhà Hậu Lê và các hoàng thái hậu, mà còn tôn vinh công thần Nguyễn Trãi và Lê Lai. Đặc biệt, tượng vua Lê Thái Tổ cùng sáu bức tượng các bà phi từ nhiều dân tộc và quốc tịch khác nhau là những tác phẩm nghệ thuật quý giá.
Hằng năm, vào ngày 21-22 tháng 8 Âm lịch, lễ hội truyền thống được tổ chức tại Thái Miếu, Lam Kinh và tượng đài Lê Lợi, thể hiện lòng tri ân và niềm tự hào lịch sử của người dân Thanh Hóa.
Giá vé: 30.000 VNĐ/ vé
Kim Sơn nổi bật với vẻ đẹp nên thơ, ẩn mình giữa thiên nhiên hùng vĩ của Thanh Hóa. Khung cảnh nơi đây là sự hòa quyện tuyệt mỹ giữa những ngọn núi đá cao sừng sững và dòng nước trong xanh, tạo nên bức tranh như bước ra từ truyền thuyết.
Danh thắng Kim Sơn - Chốn bồng lai tiên cảnh tại xứ Thanh
Du ngoạn trên thuyền, du khách sẽ cảm nhận sự thanh bình len lỏi qua từng dãy núi kỳ vĩ, tận hưởng phút giây thư thái giữa trời đất. Điểm nhấn của hành trình là động Tiên Sơn, nơi tượng Phật Bà Quan Âm hiện diện trang nghiêm, mang lại cảm giác thiêng liêng và bình an.
>> Tìm hiểu thêm: Tổng hợp ảnh đẹp về những địa điểm du lịch Thanh Hóa
Tọa lạc tại xã Nga Phú, huyện Nga Sơn, cách trung tâm khoảng 5 km về phía Đông Bắc, ngôi đền Mai An Tiêm nhỏ này ẩn mình bên sườn núi, mang trong mình huyền thoại về Mai An Tiêm – biểu tượng của ý chí tự lực và khai phá đất đai. Đền không chỉ là nơi linh thiêng mà còn lưu giữ những câu chuyện đẹp được truyền qua bao thế hệ, tôn vinh công lao mở đất từ buổi đầu dựng nước.
Đền thờ Mai An Tiêm – du lịch tâm linh xứ Thanh
Vùng đất Nga Sơn còn nổi tiếng với đặc sản dưa hấu Mai An Tiêm – món quà từ huyền thoại trở thành niềm tự hào của người dân. Hằng năm, từ ngày 12 - 15 tháng 3 âm lịch, lễ hội Mai An Tiêm diễn ra tưng bừng, thu hút du khách thập phương đến tham gia, hòa mình vào không khí lễ hội rộn ràng và tìm về cội nguồn văn hóa đặc sắc nơi đây.
Nằm trên tuyến đường sắt Bắc - Nam, Cầu Hàm Rồng bắc qua Sông Mã, cách trung tâm Thành phố Thanh Hóa khoảng 5 km về phía Bắc, thuộc địa phận thị trấn Tào Xuyên, huyện Hoằng Hóa. Đây là một địa chỉ không thể bỏ qua cho những ai đam mê khám phá lịch sử đất nước.
Cầu Hàm Rồng được xây dựng vào năm 1903 dưới thời Pháp thuộc, với thiết kế vòm thép độc đáo không có trụ giữa, giống như Cầu Long Biên ở Hà Nội. Ban đầu, cầu được trang bị một đường ray cho tàu hỏa và hai phần đường cho xe ô tô, trở thành một trong những cây cầu hiện đại nhất Đông Dương thời bấy giờ.
Tuy nhiên, vào năm 1946, cầu cũ đã bị phá hủy trong nỗ lực kháng chiến chống thực dân. Năm 1962, cầu được khởi công xây dựng lại với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc, và hoàn thành vào năm 1973.
Cầu Hàm Rồng không chỉ đóng vai trò quan trọng trong giao thông chiến lược phía Bắc Thanh Hóa mà còn là nhân chứng cho những thăng trầm của lịch sử, đặc biệt là trong trận không chiến nổi tiếng năm 1965. Giữa bom rơi đạn lạc, cầu vẫn hiên ngang tựa lưng vào Núi Hàm Rồng, in bóng xuống dòng Sông Mã.
Ngày nay, Cầu Hàm Rồng không chỉ là biểu tượng văn hóa và tinh thần kiên cường của người dân xứ Thanh, mà còn là điểm tham quan hấp dẫn. Từ cầu, du khách có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Sông Mã hiền hòa và Núi Ngọc hùng vĩ, tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ mà đất trời ban tặng cho quê hương.
Đền thờ Lê Hoàn - ngôi đền cổ nhất tại Thanh Hóa, đã trải qua hàng trăm năm lịch sử, là biểu tượng của lòng tôn kính đối với vị vua khai sáng triều Tiền Lê. Với kiến trúc mang đậm phong cách truyền thống Việt Nam, đền thờ không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa và nghi lễ cổ truyền.
Đền Lê Hoàn - ngôi đền cổ bậc nhất ở xứ Thanh
Dù trải qua bao thăng trầm và khắc nghiệt của thời gian, đền thờ vẫn vững vàng, được chính quyền địa phương tu bổ và gìn giữ, trở thành một công trình khang trang và trang trọng. Mỗi năm, nơi đây thu hút đông đảo du khách và người dân địa phương đến dâng hương, bày tỏ lòng thành kính và tri ân đến vị anh hùng dân tộc, khẳng định vị thế của đền như một điểm đến linh thiêng trong lòng người dân xứ Thanh.
Hang Con Moong tọa lạc tại thôn Thành Trung, huyện Thạch Thành, với độ cao 147m so với mực nước biển, là một trong những di tích khảo cổ quan trọng của Việt Nam. Nằm trong hệ tầng Đồng Giao, có niên đại khoảng 240 triệu năm, hang động này không chỉ sở hữu vẻ đẹp kỳ vĩ của núi đá vôi mà còn là chứng nhân lịch sử cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại.
Được phát hiện vào năm 1974, Hang Con Moong đã trải qua bốn đợt khai quật, xác nhận sự phát triển liên tục của các kỹ nghệ công cụ đá từ thời kỳ Đá cũ đến Đá mới. Những công cụ bằng đá, vết tích bếp lửa và xương động vật được tìm thấy tại đây đã ghi lại dấu ấn của một nền văn hóa phong phú và đa dạng.
Trải qua hàng chục ngàn năm, với sự biến đổi của khí hậu và môi trường sống, con người đã phát triển và mở rộng kỹ nghệ chế tác công cụ, để lại nhiều dấu tích về lối sống và sinh hoạt của tổ tiên. Hang Con Moong không chỉ là nơi lưu giữ ký ức của quá khứ mà còn là nguồn cảm hứng cho các thế hệ sau này trong hành trình khám phá di sản văn hóa và lịch sử của dân tộc.
Khu di tích Bà Triệu nằm trên ngọn núi Gai thuộc làng Phú Diễn, Hậu Lộc, Thanh Hóa, là một địa điểm du lịch nổi bật, thu hút đông đảo du khách và người dân địa phương đến hành hương. Ngôi đền linh thiêng này thờ phụng nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh, người đã anh dũng đứng lên chống giặc ngoại xâm vào thế kỷ III sau Công Nguyên, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng dân tộc Việt.
Toàn cảnh đền Bà Triệu ở Thanh Hóa nhìn từ trên cao
Với lối kiến trúc truyền thống đặc trưng của Đồng Bằng Bắc Bộ, khu di tích Bà Triệu được bố trí hợp lý từ cổng ngoại, hồ nước, bình phong đến cổng nội và các khu vực tiền đường, trung đường và hậu cung. Dù mang vẻ đẹp đơn sơ và giản dị, ngôi đền vẫn toát lên sự thanh lịch và uy nghiêm, tạo nên không gian thanh tịnh, linh thiêng.
Khi đặt chân đến đây, bạn không chỉ cảm nhận được hơi thở của lịch sử, mà còn được thưởng thức vẻ đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và kiến trúc, tạo nên một bức tranh cổ kính, tự nhiên mà đầy thiêng liêng. Khu di tích Bà Triệu không chỉ là nơi tưởng nhớ một anh hùng dân tộc mà còn là điểm đến tâm linh, nơi lưu giữ những giá trị văn hóa và lịch sử quý báu của dân tộc Việt Nam.
Trải dài trên diện tích hơn 140 ha, khu di tích Lam Kinh nằm ở Thanh Hóa là điểm đến hấp dẫn cho những tín đồ yêu thích lịch sử Việt Nam. Đây không chỉ là nơi sinh của anh hùng dân tộc Lê Lợi mà còn là trung tâm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh, mở ra thời kỳ thịnh trị gần 360 năm cho đất nước.
Với kiến trúc theo phong cách cổ điển của triều Hậu Lê, Lam Kinh được xây dựng theo nguyên tắc "tọa sơn hướng thủy", nằm tựa vào núi Dầu và hướng ra sông Chu, tạo nên khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Khu di tích không chỉ là một di sản văn hóa thiêng liêng, mà còn là nơi tôn vinh tổ tiên và các vị vua của triều đại nhà Lê.
Khi đến đây, du khách sẽ được khám phá những công trình kiến trúc độc đáo như chính điện, Thái miếu và Vĩnh Lăng - nơi an nghỉ của vua Lê Thái Tổ, cùng với những truyền thuyết huyền bí gắn liền với lịch sử. Lam Kinh không chỉ mang trong mình giá trị lịch sử to lớn mà còn là biểu tượng văn hóa của dân tộc, khiến mỗi du khách đều cảm nhận được hơi thở của quá khứ hào hùng.
Giá vé: 40.000 VNĐ/ vé
Thành Nhà Hồ được xây dựng bởi Hồ Quý Ly vào năm 1397, là một biểu tượng lịch sử và văn hóa bất hủ của Việt Nam. Sau gần 600 năm tồn tại, những bức tường thành vững chắc với bốn cổng Đông, Tây, Nam, Bắc vẫn giữ nguyên vẻ đẹp kiến trúc độc đáo, phản ánh sự kiên cố và tài hoa của những thế hệ xây dựng trước.
Thành Nhà Hồ - Di sản văn hóa thế giới giữa lòng xứ Thanh
Đặc biệt, vào năm 2011, UNESCO đã công nhận Thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới. Khẳng định giá trị nhân văn và nghệ thuật kiến trúc độc đáo của di tích này, thu hút du khách khám phá và tìm hiểu về một thời kỳ lịch sử oai hùng của dân tộc.
Như vậy, bài viết trên đây chia sẻ cho bạn đọc 27 di tích lịch sử ở Thanh Hóa nổi tiếng để mọi người đến check-in và khám phá. Mong rằng, bài viết sẽ hữu ích và giúp bạn đọc khám phá các di tích Việt Nam ở vùng đất này.
Thanh Hóa 3747 lượt xem
Ngày cập nhật : 23/10/2024
Tọa lạc trên mảnh đất Thanh Hóa “địa linh nhân kiệt” với những cảnh đẹp non nước sơn thủy hữu tình, bãi biển Sầm Sơn là một trong những điểm đến nổi bật và thu hút khách du lịch bởi mặt biển xanh trong, bao la, hùng vĩ; những bãi cát trải dài bất tận và không khí trong lành, thoáng đãng đến yên lòng. Sầm Sơn, một cái tên không còn lạ lẫm với tất cả mọi người, chắc chắn sẽ đem đến cho bạn một trải nghiệm du lịch nghỉ dưỡng vô cùng hoàn hảo và độc đáo. Thời tiết trong năm của Thanh Hóa đặc trưng với hai mùa rõ rệt. Mùa nóng kéo dài trong khoảng từ tháng 5 đến tháng 10 Dương lịch với những cơn mưa và nhiệt độ cao. Còn mùa lạnh tràn về vào những ngày tháng 11 đến tháng 4 năm sau, ít mưa và thời tiết khá lạnh. Với những người muốn trải nghiệm du lịch biển vào mùa hè để xả bay cơn nóng thì thời điểm thích hợp nhất cho chuyến đi Sầm Sơn của bạn là vào tháng 5 đến tháng 7, nhưng vào khoảng thời gian này, Sầm Sơn thường rất đông khách du lịch tới đây nghỉ dưỡng nên nhiều lúc cho thể gây ảnh hưởng tới việc thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên rộng lớn ở nơi đây. Một thời điểm vắng vẻ hơn cho những ai muốn đi du lịch Sầm Sơn đó chính là vào tầm tháng 2 đến tháng 4. Vào thời điểm này thời tiết còn hơi se se lạnh, nên nhiều người ngại tắm biển nhưng bù lại bãi biển vắng người hơn, rộng rãi hơn và bạn hoàn toàn có thể ôm trọn cả thiên nhiên hùng vĩ ấy vào tầm mắt của bạn. Đến với bãi biển Sầm Sơn là một bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, nơi có sự giao thoa giữa bầu trời và mặt đất, giữa núi rừng và biển cả. Khách du lịch khi tới đây đều thích thú với bãi biển trải dài với làn nước xanh trong, mát lạnh, bãi cát trắng trải dài được tô điểm với những rặng dừa, phi lao rì rào trong gió. Sầm Sơn vào mỗi thời điểm trong ngày lại mang một vẻ đẹp riêng biệt. Hãy cố gắng dậy sớm một chút để không bỏ lỡ cảnh mặt trời mọc trên biển nhé. Từ màn đêm đen kịt, mặt trời hồng ló rạng đỏ rực lóng lánh trên mặt biển lớn tạo nên một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Buổi chiều là thời điểm mọi người cùng nhau xuống biển thư giản và nghỉ dưỡng. Bãi biển Sầm Sơn đặc biệt đông đúc vào mùa hè, khi mọi người đều muốn ra biển, thả mình trong không gian rộng lớn để xua đi hết mọi mệt nhọc, ưu phiền. Màn đêm buông xuống trên bãi biển Sầm Sơn mới thật kì áo, khi phố xá lên đèn, biển như thu mình lại, đen kịt, chỉ còn nghe thấy tiếng rì rào của sóng và tiếng những rặng dừa đang rung rinh trong gió. Sầm Sơn không chỉ là nơi nghỉ dưỡng với không gian thiên nhiên đẹp lí tưởng mà còn là địa điểm mà bạn có thể thưởng thức những món hải sản cực tươi ngon trên những con tàu đầy ắp cá tôm của người dân chài mới cập bến. Khi đến Sầm Sơn, bạn có thể ghé qua một vài di tích lịch sử gần đó như núi Trường Lệ, đền Độc Cước,… Với cảnh đẹp và dịch vụ du lịch đạt chuẩn, Sầm Sơn hứa hẹn sẽ là một điểm đến lí tưởng cho chuyến đi của bạn. Vừa có được ngắm nhìn phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ, vừa được trải nghiệm văn hóa ẩm thực miền biển với những món ăn tươi ngon, độc đáo nhất. Chính những điểm đó đã làm nên tên tuổi của Sầm Sơn, biến Sầm Sơn trở thành một lựa chọn hàng đầu cho những chuyến đi du lịch vào mùa hè.
Thanh Hóa 2164 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Khu du lịch Hải Tiến là điểm du lịch sinh thái biển, thuộc địa phận của 4 xã phía đông huyện Hoằng Hoá (tỉnh Thanh Hoá) là Hoằng Hải, Hoằng Trường, Hoằng Thanh và Hoằng Tiến. Bãi biển Hải Tiến cách Thủ đô Hà Nội chừng 155 km, vẫn giữ được môi trường sinh thái tự nhiên. Bờ biển thoai thoải với nền cát ổn định cao, dòng chảy điều hoà và không có dòng xoáy nguy hiểm. Độ dốc bờ biển và mức tạo sóng cũng an toàn cho hoạt động tắm biển của du khách. Lợi thế lớn nhất của khu du lịch này là nằm gần các điểm di tích lịch sử - văn hoá của xứ Thanh. Từ bãi biển, du khách có thể đến bãi Sầm Sơn, Lạch Hới, khu bảo tồn rừng bần, sú vẹt Cồn Trường bằng du thuyền. Với những điểm mạnh kể trên, khu du lịch Hải Tiến là điểm đến hấp dẫn trong các chuyến du lịch Thanh Hoá. Ngoài nghỉ dưỡng và tắm biển, du khách đến đây còn có cơ hội tham gia vào các hoạt động vui chơi thú vị, thưởng thức ẩm thực địa phương. Từ tháng 4 – tháng 8 hàng năm là thời gian thích hợp cho các chuyến du lịch biển miền Bắc nói chung là biển Hải Tiến nói riêng. Sau thời gian này, tiết trời sẽ chuyển dần sang thu, nền nhiệt cũng bắt đầu giảm. Tuy nhiên, các tháng mùa hè cũng trùng với thời điểm mùa mưa bão ở miền Bắc, có thể có bão hoặc áp thấp nhiệt đới. Do đó, trước khi đến khu du lịch Hải Tiến Thanh Hóa, du khách vẫn nên xem dự báo thời tiết trước. Có 2 hình thức lưu trú phổ biến ở khu du lịch Hải Tiến là khách sạn mặt biển và khách sạn có view hướng biển. Khách sạn mặt biển có mức giá khá cao, từ 600.000 – 2.500.000 VND/ đêm. Bù lại, chúng nằm rất gần biển, chỉ cách biển khoảng 30 – 100 m. Khách sạn hướng biển có giá phải chăng hơn, chỉ từ 400.000 – 1.500.000 VND/ đêm. Sở hữu bãi biển đẹp và địa thế đắc địa – gần các điểm tham quan, du lịch nổi tiếng, Hải Tiến là điểm đến hút khách nhất trong thời gian vừa qua. Đến đây, du khách sẽ có những trải nghiệm vui chơi, nghỉ dưỡng tuyệt vời, không thể nào quên. Điểm nhấn lớn nhất của khu du lịch Hải Tiến chắc chắn là bãi biển Hải Tiến đẹp mộng mơ. Bãi biển vẫn giữ được nét nguyên sơ vốn có, gần cửa biển nhưng có phù sa bồi đắp nên rất sạch, ít cát và mịn. Dọc theo bờ biển là những hàng phi lao xanh mướt, không gian yên tĩnh và vô cùng nên thơ. Đặc biệt, bãi biển còn cực kỳ an toàn, bờ biển thoải nên có thể bơi ra khá xa. Du khách đến đây có thể tha hồ ngụp lặn dưới dòng nước trong xanh, dạo biển ngắm nhìn khung cảnh bình yên mỗi khi chiều xuống. Ngoài ra, bạn cũng đừng quên thưởng thức các loại hải sản tươi ngon – sản vật do thiên nhiên, biển cả ban tặng.
Thanh Hóa 1860 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Khu du lịch sinh thái Bến En là một trong những thắng cảnh nổi tiếng với hệ sinh thái sinh học vô cùng phong phú, đa dạng, là quần thể du lịch sinh thái, nuôi trai lấy ngọc kết hợp với bảo tồn vườn quốc gia Bến En - nơi được mệnh danh là “Hạ Long trên cạn của xứ Thanh”. Khu du lịch Bến En nằm trải dài giữa hai huyện Như Thanh và Như Xuân, cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 45km theo hướng Tây Nam. Được thành lập vào năm 1992 với điện tích lên đến khoảng 15.000ha, vườn quốc gia Bến En là khu rừng nguyên sinh với hệ sinh thái động thực vật vô cùng đa dạng và phong phú. Nơi đây còn được bao quanh bởi hồ Sông Mực rộng hơn 4000ha, mặt hồ tĩnh lặng, xanh biếc quanh năm như một đôi tay thiên nhiên rộng lớn ôm lấy trái tim vườn quốc gia Bến En. Tọa lạc trên dải đất miền Trung khô cằn, khu du lịch sinh thái Bến En là một điểm đến lý tưởng được nhiều người lựa chọn bởi nét đẹp hoang sơ, độc đáo của núi rừng hùng vĩ. Do thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa, vườn quốc gia Bến En nằm trong khối khí hậu nhiệt đới gió mùa: nắng nóng vào mùa hè và lạnh vào màu đông. Tuy nhiên nhờ được bao phủ bởi cánh rừng nguyên sinh xanh mát nên thời tiết của Bến En hết sức mát mẻ. Vào mỗi thời điểm thì vườn quốc gia Bến En lại có những vẻ đẹp khác nhau nên dù đi vào bất cứ khoảng thời gian nào trong năm thì bạn đều sẽ có những trải nghiệm đáng nhớ. Tuy nhiên, thời điểm lý tưởng nhất để tham quan khu du lịch sinh thái Bến En là vào mùa hè. Đây là thời điểm thu hút khách du lịch nhất năm của địa điểm này bởi lúc này, khu du lịch sinh thái Bến En khoác lên mình một tấm thảm xanh mướt trong nắng vàng rực rỡ, tạo nên những bức tranh diễm lệ giữa núi non. Vườn quốc gia Bến En có hệ nguyên sinh động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng với hơn 462 loài cây cùng với khoảng 125 họ thực vật. Trong đó nổi bật với cây lim xanh nổi tiếng ở Việt Nam có tuổi đời lên đến vài trăm năm với đường kính thân đạt gần 3m. Tại đây cũng bảo tồn nhiều loại cây và dược liệu quý hiếm khác như chò chỉ, bù hương, vàng tâm, sến mật, lát hoa, lim, xẹt, trai lý,... Đặc biệt, nơi đây với diện tích hồ Sông Mực rộng khoảng 4000ha, mực nước rất sâu, trong xanh thăm thẳm tạo nên một khung cảnh rất dịu dàng, nên thơ. Đến vườn quốc gia Bến En, bạn đừng bỏ lỡ những món ăn mang đậm hương sắc của nơi đây như các món ăn được làm từ cá mè đánh bắt ở hồ Sông Mực. Ngoài ra, có thể thưởng thức những món ăn nổi tiếng của người dân bản địa như canh gà, canh đắng. Đặc biệt, khi tới bản Vơn - nơi mang đậm những nét truyền thống của người Thái cổ xưa, bạn nhớ thưởng thức món rượu cần đặc sản. Hương vị đặc biệt này sẽ lưu giữ dấu ấn khó phai trong lòng bạn đấy.
Thanh Hóa 2117 lượt xem
Tháng 3 đến tháng 8
Thác Mây Thanh Hóa được xem là con thác đẹp nhất gắn liền với huyền thoại 9 bậc tình yêu. Thác Mây nằm trên con suối Làng Sủ, xã Thạch Lâm, huyện Thạch Thành. Thác Mây chỉ cách trung tâm thành phố Thanh Hóa khoảng 50 km nên được coi là điểm đến hấp dẫn cho chuyến du lịch Thanh Hóa của bạn. Thác Mây dài khoảng 100m gồm 9 ngọn thác lớn nhỏ được tạo thành bởi hệ thống núi đá vôi ở phía bắc Trường Sơn. Dòng nước từ độ cao khoảng 400m đổ xuống nên cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, hoang sơ và huyền ảo đến ngỡ ngàng. Không những thế, phong cảnh tuyệt đẹp nơi đây với làn nước trong vắt, hòa cùng khung cảnh thiên nhiên hữu tình cũng níu chân bao khách du lịch. Con thác này còn được gọi là thác "chín bậc tình yêu". Theo tương truyền, trong một lần đi ngao du hạ giới, 9 nàng tiên đã vô tình đi qua một thác nước tuyệt đẹp. Do không thể cưỡng lại được vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây nên 9 nàng tiên đã xuống tắm. Theo kinh nghiệm du lịch thác Mây Thanh Hóa, thời điểm lý tưởng nhất để đến thác Mây là vào mùa hè. Khi thác đổ xuống sẽ tạo thành một dòng suối mát lạnh, giúp bạn có thể tận hưởng cảm giác tắm thác một cách trọn vẹn nhất. Người ta ví thác Mây dịu dàng như một cô gái Mường, ngày đêm lẩm nhẩm một mình, tung bọt trắng xóa lên trời. Thác Mây có nước quanh năm nhưng đẹp nhất có lẽ là vào các tháng 6, 7, 8. Vào những ngày nắng đẹp, cảm giác hồ nước mát lạnh như pha lê. Cũng vì lý do đó, khách du lịch thường đổ dồn đến tham quan thác Mây vào thời điểm này. Trên đường đến Thác Mây, bạn sẽ đi qua một cây cầu gỗ làm bằng những cành cây dại bắc qua sông Ngang. Thác Mây có 9 bậc thác cao thấp gối chồng lên nhau như ruộng bậc thang bắt mắt. Từ trên cao nhìn xuống, dòng tác đẹp tựa như một dải lụa trắng xóa tuyệt đẹp. Người Mường ở đây thường kể những truyền thuyết về con thác hiền hòa này. Theo tương truyền, 9 nàng tiên bay qua thác nước và tắm ở đây. Khi bay về trời, 9 nàng tiên để lại 9 dấu chân, tạo thành 9 bậc của thác nước như ngày nay. Người ta tin rằng nếu các cặp đôi cùng nhau xuống thác, họ sẽ trở thành vợ chồng. Vì vậy, con thác thơ mộng này còn được gọi là “chín bậc yêu”. Thác Mây nằm trong vùng đệm của rừng quốc gia Cúc Phương nên bạn có thể khám phá hệ động thực vật phong phú ở đây. Hệ sinh thái rừng quốc gia Cúc Phương rất đa dạng nên bạn có thể tự do khám phá các loài chim, động vật quý hiếm. Có diện tích 25.000 ha, Vườn quốc gia Cúc Phương cũng là rừng quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Cúc Phương có đặc điểm là rừng mưa nhiệt đới quanh năm tươi tốt, hệ động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng. Nhiều loài động, thực vật có nguy cơ tuyệt chủng được tìm thấy và bảo tồn tại đây, trong đó voọc quần đùi đen trắng được coi là biểu tượng của rừng Cúc Phương. Theo kinh nghiệm du lịch thác Mây Thanh Hóa, dịch vụ du lịch ở đây chưa phát triển nên các điểm ăn uống còn tương đối hạn chế. Vì vậy, để thuận tiện và tiết kiệm, du khách có thể chuẩn bị sẵn đồ ăn khi đến đây. Nếu du khách từ xa đến muốn thưởng thức đặc sản Thanh Hóa có thể thuê nhà sàn để ăn trưa (không nghỉ qua đêm). Tại đây, bạn sẽ được thưởng thức những món ăn đặc trưng của xứ Thanh như: xôi nếp nướng, rau sắng nấu canh, ốc đá xào, thịt trâu nướng lá lồm, gà đồi nướng,… Tất cả các nguyên liệu đều tươi ngon và được chế biến cầu kì, mang hương vị thơm ngon khó cưỡng.
Thanh Hóa 1977 lượt xem
Tháng 6 đến tháng 8
Bản Kho Mường nằm trong thung lũng Hua Mường, thuộc vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông có 60 hộ dân sinh sống, 225 khẩu, 13 hộ kinh doanh du lịch cộng đồng, bản còn giữ nguyên nếp nhà sàn truyền thống, nằm trong thung lũng có khí hậu mát mẻ quanh năm; cảnh quan thiên nhiên đặc sắc, hoang sơ của những cánh rừng nguyên sinh, đời sống sinh hoạt đậm đà bản sắc của dân tộc Thái gợi cho người ta cảm giác nơi đây giống một vùng đất bình yên, trong lành và nên thơ với người dân bản địa trân chất mộc mạc, thân thiện, thật thà. Con đường vào Kho Mường uốn lượn, quanh co, một bên là vách núi, một bên là vực sâu với những thửa ruộng bậc thang xanh mướt, những trảng rừng ngút ngát. Đây là cung đường với cảnh trí thiên nhiên tuyệt đẹp nhưng cũng dễ khiến nhiều người “chùn bước” vì độ khó khăn, hiểm trở. Tuy nhiên, lại rất hấp dẫn với những dân “phượt” ưa khám phá. Bản Kho Mường còn có một điểm đến đầy sức hút, đó là hang Dơi nằm trong quần thể hang động được phát hiện trong khu Bảo tồn thiên nhiên Pù Luông đã trở thành một trong những điểm đến lôi cuốn khách du lịch trong và ngoài nước yêu thiên nhiên, đam mê khám phá tự nhiên. Hang Dơi có vẻ đẹp hấp dẫn với những khối đá vôi đã làm nên Hang động này đã phát hiện qua quá trình khoảng 250 triệu năm trước. Hang có mối liên hệ với hệ thống sông dưới lòng đất với chiều dài khoảng 2,5km về phái bắc và dẫn nước từ Kho Mường qua làng Pốn thuộc xã Lũng Cao hệ thống sông suối chảy trong lòng hang là đặc điểm chung được biết tới qua các khu vực núi đá Kart, nó tạo ra sự kết nối giữa các thung lung lòng chảo các cửa các dòng chảy. Hang Dơi, bản Kho Mường còn là nơi chú ngụ của nhiều loài Dơi có ít nhất 4 loài Dơi cư ngụ trong hang Dơi, bản Kho Mường trong các thời điểm khác nhau trong năm. Trong đó có cả loài Dơi ăn thịt côn trùng và nhiều loài ăn hoa quả chúng là những loài nhất quan trọng cho việc truyền giống về kiểm soát côn trùng gây hại. Hiện nay, đường vào hang Dơi, bản Kho Mường được đầu tư, nâng cấp từ nguồn vốn phát triển du lịch của tỉnh Thanh Hóa. Hàng năm đã thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến thăm quan du lịch. Ẳm thực tại bản Kho Mường là những món ăn phong phú, đa dạng, được chế biến công phu từ những nguyên liệu gần gũi có sẵn từ núi rừng, suối khe tại địa phương. Tùy từng thời điểm, từng mùa trong năm mà có các món ăn khác nhau. Một số món ngon mà người Thái thường hay chế biến như: Cá nướng, cơm lam, thịt lợn hấp, gà nướng, ốc đá, xôi tím... Món ăn thông dụng và ưa thích nhất là xôi ngũ sắc từ nếp nương, cơm lam... Đặc biệt, nơi đây nổi tiếng với các món ăn được chế biến từ vịt Cổ Lũng - giống vịt đã trở thành thương hiệu nổi tiếng, nhiều người biết đến. Giống vịt cổ ngắn, chân thấp, được thả ở suối, ở đồng nên thịt chắc và thơm, trứng có nhiều lòng đỏ... món ăn đặc sản mà nhiều du khách đã từng biết đến và muốn thưởng thức khi đến du lịch tại Bá Thước. Du khách đến với bản Kho Mường sẽ có những đêm đốt lửa trại, uống rượu cần, cùng giao lưu văn nghệ với điệu xòe Thái, khắp Thái, hát múa dân ca, dân vũ đậm đà bản sắc dân tộc với các thiếu nữ xinh đẹp trong trang phục dân tộc, tiếng nhạc cụ truyền thống làm mê đắm lòng du khách; có hướng dẫn viên địa phương dẫn đường, giới thiệu về bản Kho Mường, dẫn đi thăm bản lân cận khác trong Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông nếu du khách có nhu cầu khám phá hệ sinh thái phong phú của rừng Pù Luông hay tham quan vườn cam, quýt đặc sản Kho Mường, tham gia trải nghiệm các hoạt động lao động sản xuất cũng như đời sống sinh hoạt hàng ngày với người dân bản địa.
Thanh Hóa 1966 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 8
Thanh Hóa là miền đất nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp. Một trong những điểm đến tâm linh, sinh thái nhất nhì quê hương điệu hò sông Mã chính là suối cá thần Cẩm Lương. Suối cá Cẩm Lương là một tuyệt phẩm của tạo hóa ban tặng. Nơi đây không chỉ nổi tiếng bởi vẻ hoang sơ, mộc mạc mà còn gắn liền với những huyền tích kỳ bí từ xa xưa. Xã Cẩm Lương vốn được biết đến là một vùng đất nằm giữa những dãy núi đá vôi trùng điệp bên tả ngạn sông Mã như hình chiếc võng khổng lồ chạy suốt từ Bắc đến Đông, ôm gọn Cẩm Lương vào vòng lũng núi. Trải suốt phía Tây Nam là dòng sông Mã trong xanh như một dải lụa mềm. Và ngay trong lòng mảnh đất ấy là một suối cá thần độc đáo. Suối cá thần Cẩm Lương còn có tên gọi khác là suối cá thần làng Ngọc, gắn với truyền thuyết về Thần Rắn. Xưa kia có hai vợ chồng tuổi đã cao mà vẫn chưa có con. Ngày ngày họ hay ra thửa ruộng bên cạnh suối vừa khơi nước trồng lúa vừa xúc cá bắt ốc về làm thức ăn. Một hôm người vợ xúc được một quả trứng lạ. Nhiều lần xúc được lại thả xuống nước, nhưng xúc lần nào thì quả trứng lạ ấy vẫn cứ thấy nằm trong rổ. Bà bèn mang về, vợ chồng bàn nhau đem cho gà ấp thử. Một hôm nghe tiếng gà cục tác, bà vợ ra xem thì thấy trứng nở được một con rắn. Hoảng sợ, người chồng mang rắn con ra suối Ngọc để thả, nhưng cứ thả thì tối rắn lại trở về nhà. Dần dần rắn sống tại gia đình thân quen như những con vật nuôi khác. Nhưng từ khi có rắn ở trong nhà, đồng ruộng có đủ nước để cày cấy, đời sống trong vùng ấm no hạnh phúc vì không còn cảnh hạn hán kéo dài. Cứ thế, chàng rắn sống với gia đình và làng bản trong cảnh thái bình, no ấm. Trải qua năm tháng, chàng rắn đã to bằng ống vác nước, cứ trưa trưa lại lên xà nhà nằm. Bỗng một đêm trời mưa to gió lớn, sấm chớp ầm ầm, sáng ra dân làng thấy xác chàng rắn chết dạt vào chân núi Trường Sinh (vị trí đền thờ hiện nay). Thương tiếc chàng Rắn, dân làng chôn chàng ngay chân núi và lập đền thờ. Dân làng được thần linh cho hay, chàng rắn chết vì đã đánh nhau với thuỷ quái về phá hoại bản làng và chàng đã được thượng đế phong Thần hiệu “Tứ Phủ Long Vương”. Cũng từ đó, suối Ngọc trước cửa đền thờ có đàn cá hàng ngàn con ngày đêm về chầu và nhân dân trong vùng không bao giờ ăn cá suối Ngọc, cũng như quen gọi cá thần từ đó. Theo các nhà khoa học, đàn cá ở suối Cẩm Lương là cá giốc (hay còn gọi là cá dốc), thuộc bộ cá chép và có tên trong sách đỏ Việt Nam. Giống cá màu xanh thẫm này có hai bên mép đỏ tươi, mỗi khi bơi phát ra những luồng ánh sáng lấp lánh như ánh ngọc. Có một điều kỳ lạ là những con cá ở suối chỉ bơi quanh quẩn đúng một đoạn suối dài hơn 100m và không bơi ra xa hơn nữa. Thậm chí có mùa nước lũ đổ về nước dâng cao lên khắp cả con đường lối dẫn vào suối nhưng kỳ lạ thay cá không bao giờ trôi đi, khi nước lớn tràn vào suối, những con cá lớn chui vào hang, hốc để trốn, những con nhỏ nếu bị nước cuốn đi cũng có thể tự biết đường bơi trở lại. Cá ở đây nhiều vô kể với các loại lớn bé khác nhau, con lớn nặng chừng 30kg - đó là cá chúa. Vào ban ngày, từng đàn nối đuôi nhau bơi lượn từ trong hang ra ngoài. Đến đây, du khách có thể đùa vui với cá, cho cá ăn và ngắm nhìn sinh hoạt tự nhiên của giống cá này. Cuối ngày, đàn cá thần sẽ bơi xuyên qua một khe hang nhỏ để trú ẩn bên trong núi. Cửa hang chỉ rộng hơn một sải tay nhưng lòng hang rộng và sâu, đủ sức chứa hàng nghìn con cá. Có một điều kỳ lạ là mặc dù đàn cá rất đông đúc nhưng nước ở suối luôn trong vắt và không có mùi tanh, có thể dùng cho sinh hoạt hoặc nấu nướng. Đây là một điều khó lý giải mà các nhà khoa học vẫn đang nghiên cứu. Hàng năm, nhất là vào dịp tháng giêng âm lịch, suối cá thần Cẩm Lương thu hút hàng nghìn du khách thập phương ghé thăm và tham dự lễ hội rước cá Thần truyền thống của người Mường. Người dân trong vùng tin rằng đây là giống cá thần hiếm có và sự sung túc của đàn cá sẽ đem lại bình yên no ấm cho cuộc sống của người dân địa phương. Trong quần thể suối cá còn có đền Ngọc thờ tứ phủ Long Vương, phía trên suối cá có động Cây Đăng với cảnh sắc lung linh huyền bí, nhiều nhũ đá hình thù kỳ vĩ, lấp lánh như kim cương… Một điều thú vị là du khách bước vào cửa hang một đường, sau khi khám phá hết sẽ ra ngoài bằng đường khác tạo thành một vòng tròn khép kín. Suối cá thần Cẩm Lương là sản phẩm độc đáo của thiên nhiên, với cảnh quan tuyệt đẹp, có rừng, có sông suối, bản làng và những người dân hiền lành, bình dị tạo nên một bức tranh làng quê sơn thuỷ hữu tình. Hãy một lần đến nơi đây để say ngắm thỏa thuê cảnh sắc, trút bỏ bao phiền muộn ưu tư…
Thanh Hóa 2073 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh nằm trên địa bàn thị trấn Lam Sơn và xã Xuân Lam (huyện Thọ Xuân), xã Kiên Thọ (huyện Ngọc Lặc), với tổng diện tích quy hoạch bảo tồn là 200ha. Lam Kinh vốn là đất Lam Sơn, quê hương của anh hùng Lê Lợi, người có công chiêu mộ hiền tài, quy tụ nhân dân đánh đuổi giặc Minh xâm lược (1418 - 1427). Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (Lê Thái Tổ), lập nên vương triều Hậu Lê, đóng đô ở Thăng Long, mở ra thời kỳ phát triển mới cho quốc gia Đại Việt. Năm 1430, Lê Thái Tổ đổi tên vùng đất Lam Sơn thành Lam Kinh. Kể từ đó, các kiến trúc điện, miếu... cũng bắt đầu được xây dựng tại đây, gắn với hai chức năng chính: - Điểm nghỉ chân của các vua Lê khi về cúng bái tổ tiên, đồng thời, cũng là nơi ở của quan lại và quân lính thường trực trông coi Lam Kinh; - Khu tập trung lăng mộ của tổ tiên, các vị vua, hoàng thái hậu nhà Lê và một số quan lại trong hoàng tộc. Về diện mạo kiến trúc của di tích hiện nay, có thể điểm tới một số công trình tiêu biểu như: Chính điện Lam Kinh: theo tư liệu lịch sử và khảo cổ học, chính điện Lam Kinh được dựng ngay sau khi vua Lê Thái Tổ băng hà (năm 1433). Bố cục mặt bằng của kiến trúc này có dạng hình chữ “công”, với tổng diện tích là 1.645,04m2,gồm 3 tòa điện chính: Quang Đức, Sùng Hiếu và Diên Khánh. Hiện nay, trong khu vực này chỉ còn lại dấu tích nền móng, với 127 tảng kê chân cột, nền lát, bó vỉa cùng một số hiện vật khác. Thái miếu: là nơi thờ cúng tổ tiên, các vị vua và hoàng thái hậu nhà Lê. Theo kết quả khai quật khảo cổ, trong khu vực này gồm 9 tòa kiến trúc. Hiện nay, đã tôn tạo, phục hồi được 5 tòa (các tòa số 3, 4, 5, 6, 7). Sân rồng: là một trong những kiến trúc có diện tích lớn nhất trong khu trung tâm của điện Lam Kinh, nằm tại phía sau Ngọ môn, chính giữa có 3 lối đi lên chính điện theo bậc thềm rồng. Đông trù: nằm ở phía Đông Nam của chính điện, được coi như khu vực hậu cần, bếp núc để phục vụ cho toàn bộ khu vực trung tâm của Lam Kinh. Tả vu, Hữu vu: nằm về hai bên sân rồng, hiện chỉ còn lại nền móng và một số chân tảng kê cột cùng một số hiện vật khác. Tây thất: nằm trên một gò đất nhỏ ở phía Tây của Chính Điện, ngoài phạm vi thành Nội. Hiện nay, khu vực này chỉ là phế tích kiến trúc. Cầu Bạch: mới được phục hồi, dài 17m, rộng 5,50m, bắc qua sông Ngọc, nằm trên trục đường chính dẫn vào khu trung tâm chính điện Lam Kinh. Hệ thống tường thành: gồm 3 vòng thành (La thành, thành Nội và thành Ngoại). Năm 2008, một số đoạn của La thành phía Đông và phía Tây cầu Bạch đã được khôi phục (với tổng chiều dài 21m). Hồ Như Áng, kênh dẫn nước đập nhà Lê, hồ Tây: trước kia, khu vực này vốn là vùng đất trũng, xung quanh có nhiều khe suối nhỏ. Lợi dụng địa thế tự nhiên, nhà Lê đã cho đào kênh dẫn nước về hồ Tây, để cung cấp cho toàn bộ khu vực Lam Kinh. Núi Dầu: cách lăng vua Lê Thái Tổ khoảng 500m. Trên núi có đền thờ bà hàng Dầu, gắn liền với truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lăng mộ Lê Thái Tổ và bia Vĩnh Lăng: Vĩnh Lăng được xây dựng trên một dải đất bằng phẳng, ở phía Nam chân núi Dầu. Năm 1995, Vĩnh Lăng đã được trùng tu, xây lại bằng gạch, bên ngoài ốp đá đục nhám, phía trước lăng có 2 tượng quan hầu và 4 đôi tượng con giống bằng đá, đứng chầu vào đường “thần đạo” của lăng. Bia Vĩnh Lăng được làm bằng đá trầm tích nguyên khối, cao 2 mét 79, rộng 1 mét 94, đặt trên lưng rùa đá. Nội dung văn bia ghi lại thân thế, sự nghiệp của Lê Thái Tổ. Đây là một công trình điêu khắc đá có giá trị nghệ thuật, đồng thời cũng là tư liệu quý giá trong việc nghiên cứu lịch sử giai đoạn Lê Sơ. Lăng mộ Lê Thái Tông và Bia Hựu Lăng: nằm trên đỉnh cao của rừng Phú Lâm, thuộc xã Xuân Lam, cách Vĩnh Lăng 800 mét. Bia Hựu Lăng được dựng cách lăng khoảng 20m. Hiện nay, bia đã bị mất, chỉ còn lại rùa đá nằm nguyên ở vị trí ban đầu. Lăng mộ Hoàng Thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao và bia Khôn Nguyên Chí Đức: tọa lạc trên một khu đất thấp, gọi là Xà Đàm (đầm Rắn), cách Vĩnh Lăng 700 mét về phía Đông. Năm 1998, lăng mộ được trùng tu lại bằng gạch vồ, mặt ngoài trát xi măng, hai bên tạc tượng người và động vật bằng chất liệu đá. Bia Khôn Nguyên Chí Đức dựng năm Mậu Ngọ (1498), làm bằng chất liệu đá xanh nguyên khối, cao 2 mét 76, rộng 1 mét 90. Trán bia và diềm bia trang trí hình rồng 5 móng và hoa lá cách điệu... Lăng mộ Lê Thánh Tông và Bia Chiêu lăng: nằm sát gò Đình (xã Xuân Lam). Bia được dựng vào mùa xuân năm Mậu Ngọ, niên hiệu Cảnh Thống (1498). Lăng mộ vua Lê Hiến Tông và Bia Dụ Lăng: nằm ở bên phải của Vĩnh Lăng, giáp hồ Tây. Bia Dụ Lăng nằm cách lăng mộ khoảng 30 mét, được làm bằng đá nguyên khối, cao 2 mét 78, rộng 1 mét 98. Lăng mộ Lê Túc Tông và Bia Kính Lăng: được xây trên đỉnh núi “Hổ Xứ Ngọc Giăng Đèn”, thuộc địa phận xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc. Bia Kính Lăng được dựng vào tháng 3 năm Đoan Khánh thứ nhất (1505), nội dung bia ghi về thân thế, sự nghiệp của vua Lê Túc Tông. Đền thờ vua Lê Thái Tổ: tọa lạc ở phía Đông Nam khu di tích Lam Kinh, Năm 1996, đền này được tôn tạo lại, với kết cấu khung gỗ lim, theo mẫu thức của kiến trúc truyền thống, bao gồm các hạng mục: tiền đường, nhà cầu (ống muống) trung đường và hậu cung. Ngoài các kiến trúc kể trên, trong khu vực Lam Kinh còn có hệ thống công trình phụ trợ cùng nhiều di vật, cổ vật có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khác. Tại Khu di tích, vào dịp tháng 8 (Âm lịch) hàng năm, cứ đến ngày 21 (giỗ Lê Lai) và 22 (giỗ Lê Lợi), nhân dân trong vùng lại long trọng tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của các vị anh hùng giải phóng dân tộc, đồng thời thể hiện ước vọng cầu cho mưa thuận gió hòa, đời sống ấm no hạnh phúc... Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh là Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thanh Hóa 2433 lượt xem
Cầu Hàm Rồng lịch sử nằm trên tuyến đường Bắc – Nam của vùng đất xứ Thanh “địa linh nhân kiệt”, sơn thủy hữu tình bắc qua sông Mã, với lối kiến trúc độc đáo, gắn liền với lịch sử phát triển của mảnh đất Xứ Thanh hào hùng, ý chí quật cường của người Thanh Hóa. Cầu Hàm Rồng là cây cầu đầu tiên được bắc ngang qua dòng sông Mã ở Thanh Hóa, cách trung tâm Thành phố Thanh Hóa gần 5km về phía Bắc... Đây cũng là cây cầu đường sắt duy nhất đi qua dòng sông Mã do Pháp xây dựng năm 1904 theo kiểu cầu vòm thép không có trụ, hiện đại nhất Đông Dương thời bấy giờ. Năm 1946, cầu bị phá hủy theo chủ trương tiêu thổ kháng chiến của Việt Minh nhằm ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược. Năm 1963, cầu được các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc giúp đỡ thiết kế và thi công khôi phục lại, trở thành cầu có trụ như hiện nay, với chiều rộng 17 mét, gồm 2 nhịp dầm thép, ở giữa là đường sắt, hai bên là đường ô tô và đường dành cho người đi bộ. Trong chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc nước ta, Không quân Mỹ đã tập trung đánh phá cầu Hàm Rồng nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông quan trọng, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường lớn miền Nam. Việc đánh phá Hàm Rồng được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc chọn là mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất. Với âm mưu cắt đứt sự chi viện Bắc - Nam, cô lập Hàm Rồng và tập trung đánh dứt điểm Hàm Rồng, vào 8 giờ 45 phút ngày 3/4/1965, 16 chiếc máy bay đầu tiên của Mỹ ném bom vào địa phận Thanh Hoá với một loạt địa điểm đánh phá như cầu Đò Lèn (Hà Trung), cầu Cun (Nông Cống), ga Văn Trai (Tĩnh Gia)... Chỉ trong 2 ngày 3 và 4/4/1965, quân Mỹ đã sử dụng 174 lần tốp, 454 lần máy bay; ném xuống địa bàn tỉnh Thanh Hoá 627 quả bom phá, 58 quả bom nổ chậm (gồm các loại từ 500 đến 1.000kg), hàng trăm tên lửa, rốc-két vào các khu vực trọng điểm của Thanh Hoá. Riêng khu vực Hàm Rồng - Nam Ngạn - Yên Vực, địch bổ nhào 85 lần, cắt bom bắn phá 80 lần, ném 350 quả bom, bắn 149 quả đạn rốc-két. Để bảo vệ cầu Hàm Rồng, về phía ta, trong buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa tháng 12 năm 1967, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Nếu như Quân khu IV là quan trọng thì Thanh Hóa là quan trọng nhất bởi vì Thanh Hóa là hậu phương trực tiếp của mặt trận Bình - Trị - Thiên và Lào”. Tỉnh ủy Thanh Hóa nhận định: “Trọng điểm đánh phá quân khu vào lúc này là Thanh Hóa, trọng điểm Thanh Hóa là Hàm Rồng, bảo vệ cầu Hàm Rồng là góp phần bảo vệ giao thông thông suốt”. Do vị trí đặc biệt quan trọng của cầu Hàm Rồng là ở hai đầu Bắc vào Nam của cầu có hai ngọn núi, núi Ngọc và núi Rồng có thể chắn được hầu hết bom rơi xuống. Sau 2 ngày chiến đấu kiên cường, Thanh Hoá đã bắn rơi 47 máy bay giặc Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái, bảo vệ an toàn cầu Hàm Rồng. Điều này đã chứng minh đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật quân sự của Đảng và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta đã đi vào lịch sử như một huyền thoại khiến dư luận nước Mỹ xôn xao, bạn bè yêu chuộng công lý và hòa bình trên toàn thế giới khâm phục. Năm tháng qua đi. Cầu Hàm Rồng cùng hai chữ “Quyết Thắng” uy nghiêm tạc vào sườn núi như một biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam. Với mỗi người con Thanh Hóa, Hàm Rồng - Sông Mã còn là hiện thân của quê hương, vừa gần gũi, thân thuộc, vừa rất đỗi thiêng liêng, tự hào. Nguồn: Trường Chính Trị Thanh Hóa
Thanh Hóa 2376 lượt xem
Bà Triệu (tên là Triệu Thị Trinh, còn gọi là Trinh Nương, hay Triệu Ẩu), sinh năm 226, người huyện Quân Yên (Quan Yên), quận Cửu Chân. Bà có dung mạo hơn người, võ nghệ cao cường, thích giao du bạn bè, có hoài bão lớn thể hiện qua câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người!" Năm 248, Bà Triệu cùng anh trai Triệu Quốc Đạt tập hợp trai tráng trong vùng tụ nghĩa chống lại ách đô hộ nhà Ngô. Một thời gian ngắn sau, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời, Bà được tướng sĩ tôn làm Chủ tướng. Trước sức mạnh của quân ta, các thành ấp của quân Ngô ở Cửu Chân lần lượt bị đánh hạ. Cuộc khởi nghĩa phát triển, lan rộng ra các vùng Giao Chỉ, kéo dài vào tận Nhật Nam. Trước tình hình đó, Ngô vương Tôn Quyền đã phải cử viên tướng Lục Dận làm Thứ sử đem quân sang đàn áp. Sau nhiều trận chiến ác liệt, nghĩa quân không thể chống chọi được với cường địch. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên Núi Tùng (nay thuộc xã Triệu Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào ngày 22 tháng Tám, năm Mậu Thìn (248), khi mới tròn 23 tuổi. Để tưởng nhớ ân đức của Bà Triệu và các tướng sĩ, nhân dân đã lập đền thờ ngay tại địa điểm trước đây Bà cùng nghĩa quân đã chiến đấu và hy sinh oanh liệt. Trải qua biến cố của thời gian và lịch sử, đền thờ Bà Triệu tại Núi Tùng vẫn được nhân dân gìn giữ, là nơi tổ chức các sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng. Khu di tích Bà Triệu được xây dựng, trùng tu, tôn tạo qua nhiều thời kỳ khác nhau, bao gồm các địa điểm: Đền thờ và lăng mộ Bà Triệu, mộ ba Ông tướng họ Lý, miếu Bàn thề, đình Phú Điền, đền Đệ Tứ. 1. Đền Bà Triệu: tọa lạc hướng Bắc, gồm: Nghi môn ngoại, hồ sen hình chữ nhật, bình phong, Nghi môn trung, sân dưới, Nghi môn nội, sân trên (hai bên có Tả/hữu mạc), Tiền đường, sân thượng, Trung đường, sân thiên tỉnh, Hậu cung. 2. Khu lăng mộ Bà Triệu Lăng Bà Triệu: nằm trên đỉnh núi Tùng, hình trụ đứng (tứ giác) nhỏ dần về phía đỉnh gồm 2 tầng mái: có chiều cao từ mặt nền đến đỉnh là 5,8m. Mái lăng làm theo kiểu mái kiệu long đình, đỉnh lăng gắn hình nậm rượu. Toàn bộ Lăng được chế tác từ đá xanh nguyên khối, bên trong đặt bát hương, mặt chính của Lăng đặt bàn thờ bằng đá. Mộ: được xây cao hơn 0,50m so với nền. Cấu trúc mộ vuông bốn mặt có kích thước 1,5m, chiều cao 2,3m. Mộ được mở cửa hình vòm ra 4 phía, mái tạo dáng cong ở các góc, đỉnh mộ gắn quả cầu tròn. Tháp chúa: cấu trúc hình trụ vuông bốn mặt làm bằng đá nguyên khối cao 1,45m, đế tháp cao 0,5m, vuông bốn mặt. 3. Mộ Ba ông tướng họ Lý: nằm dưới chân núi Tùng, kích thước ba ngôi mộ đều là 3m. Phía sau mộ có bàn thờ xây gạch hình chữ nhật dùng làm nơi đặt đồ tế lễ. Ngoài khu mộ còn có tấm bia đá, trán bia ghi “Kỷ niệm bia chí”. 4. Miếu Bàn thề: tương truyền đây là nơi ba anh em họ Lý tổ chức ăn thề đi theo nghĩa quân của Bà Triệu, thuộc khu ruộng Đồng Bảng, làng Phú Điền. Hiện trạng miếu chỉ là một bệ thờ xây bằng gạch, dài 2,04m, rộng 1,48, cao 1,38m. 5. Đình Phú Điền: được dựng dưới thời vua Cảnh Hưng thứ 33 (1772), tọa lạc về hướng Tây Nam, nhìn ra núi Tùng, gồm các hạng mục sau: Nghi môn: kiểu tứ trụ, bằng đá xanh nguyên khối, với 3 cửa ra vào. Cột tứ trụ lớn, chân đế tạo tác kiểu chân quỳ, bốn mặt chạm tứ linh, đỉnh cột gắn tượng chim phượng lá lật. Tòa Đại đình: kiến trúc chữ Đinh, dài 18,40m, rộng 14,37m, mặt trước có hiên rộng 1,9m, cánh cửa kiểu bức bàn. Tiền đường: có kiến trúc đẹp, hài hòa, vì kèo được chạm trổ tinh vi theo phong cách chạm lộng, chạm bong, chạm nổi, chạm chìm với đề tài trang trí truyền thống như tứ linh, cá chép hóa rồng, hoa sen, hoa mai, chim sáo, hươu nai, gà trống, đặc biệt là hình tượng người phụ nữ và những hoạt cảnh dân gian. Hậu cung: 3 gian 2 chái, vì kèo kiểu "giá chiêng chồng rường kẻ bẩy" với 4 hàng chân cột, 4 vì kèo gỗ. Hậu cung được mở 3 cửa, cửa kiểu bức bàn, khung gỗ được tạo tác hình tròn ở tất cả các cấu kiện. Các bức chạm khắc tập trung ở bức tường long cốt bằng gỗ, trên hệ thống xuân hoa và các bức cốn ở ngoài hiên. 6. Đền Đệ Tứ: nằm gần khu vực núi Eo, làng Phú Điền, nên nhân dân còn gọi là Nghè Eo. Tại di tích, hiện còn lưu giữ 3 đạo sắc phong, trong đó, có 1 bản niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 5 (1797). Đền gồm 2 gian xây dọc, dài 6,12m, chiều rộng trung bình 2,88m, cao 3,85m, gồm Hậu điện và Tiền đường, xây theo kiểu cuốn vòm, nền lát gạch bát màu đỏ cổ. Đền Bà Triệu, có 297 di vật, cổ vật thuộc nhiều chủng loại, đa dạng về chất liệu như giấy, gỗ, đồng, gốm,... niên đại từ cuối thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 20. Những tài liệu, hiện vật còn được bảo lưu trong di tích có giá trị về lịch sử, văn hóa, giúp chúng ta tìm hiểu về nguồn gốc, quá trình tồn tại của di tích và truyền thống văn hóa, tín ngưỡng, phong tục của địa phương. Di tích là nơi nhân dân làng Phú Điền tổ chức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng theo phong tục cổ truyền (ngày lễ, Tết cổ truyền, ngày mất của nhân vật lịch sử). Lễ hội đền Bà Triệu diễn ra trong 3 ngày (từ 19 - 22 tháng Hai âm lịch) gồm lễ tế, lễ rước kiệu, trò diễn dân gian với sự tham gia đông đảo của cộng đồng trong vùng và thu hút hàng vạn du khách đến tham quan và hành lễ. Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Khu di tích Bà Triệu (huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) đã được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2014. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thanh Hóa 2290 lượt xem
Di tích Hang Con Moong và các di tích phụ cận thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, có tổng diện tích 4.999.180m2, khai quật lần đầu tiên vào năm 1976. Năm 2008 - 2009, hang Con Moong được đoàn kiểm tra, nghiên cứu tổng thể và khảo sát các di tích phụ cận. Trong thời gian khai quật hang Con Moong (2010 - 2015), đoàn khảo cổ học Việt - Nga đã phát hiện thêm các di tích là hang Lý Chùn, hang Bố Giáo, di tích đất đắp núi Đầu Voi, hang Mang Chiêng, Hang Diêm, đồng thời khai quật 4 di tích xung quanh là: Hang Lai (2010), hang Lý Chùn (2010), hang Mang Chiêng (2011 - 2012) và Hang Diêm (2013 - 2014). Cụ thể: 1. Hang Con Moong: nằm trong núi đá vôi tuổi Triat thượng (Upper Triassic) thuộc hệ tầng Đồng Giao (Tađg), khoảng 240 triệu năm. Hang Con Moong có địa tầng dày trung bình từ 9,5m - gồm 10 lớp có cấu trúc khác nhau. Từ lớp 1 đến lớp 6 (độ sâu từ 1m - 6m) tìm thấy nhiều công cụ lao động, xương cốt động vật, vỏ nhuyễn thể. Các lớp 7 đến 10 không gặp dấu tích động thực vật, nhưng có nhiều công cụ mảnh tước, chế tác bằng đá quartz, tập trung nhất là ở lớp 10. Theo nghiên cứu bước đầu, hang Con Moong trải qua 4 giai đoạn phát triển về văn hóa. Kết quả nghiên cứu các bon phóng xạ (C14) các lớp trên, độ từ cảm, tập trầm tích ở Con Moong và so sánh tương thích văn hóa với các di chỉ khảo cổ khác cho thấy niên đại sớm nhất của Con Moong được dự đoán 40.000 đến 60.000 năm cách ngày nay. Từ kết quả khai quật khảo cổ cho thấy, hang Con Moong là 1 trong số rất hiếm di chỉ khảo cổ học có địa tầng dày và được bảo tồn tốt nhất hiện nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. 2. Các di tích phụ cận: - Di tích Hang Lai: nằm trong dãy núi đá vôi thuộc thôn Thành Trung, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành. Hang có hình hàm ếch. - Di tích Hang Lý Chùn: Lòng hang như một mái đá nhỏ, cửa hướng Tây - Tây Nam, vòm cao 2m không phẳng nhiều diềm và nhũ đá rủ xuống, chiều dài sâu trên 2m, vách hang có những vỉa đá lan ra cửa, có nhiều mảng khối trầm tích chứa xương răng động vật hóa thạch. - Di tích Hang Bố Giáo: thuộc địa phận thôn Yên Sơn 2, xã Thành Yên, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Hang có hai khoang, ngăn cách nhau bởi các cột nhũ đá lớn. - Di tích Đất đắp Núi Đầu Voi (hay còn gọi là Hệ thống hào lũy núi Đầu Voi, Thành đất đắp núi Đầu Voi, Thành Lý Chùn, Lũy Đầu Voi, Đồn Binh Lý Chùn) nằm sát (bao bọc ba mặt) núi Đầu Voi, trong vùng đệm của Vườn Quốc gia Cúc Phương. - Di tích Hang Diêm: nằm trong khu vực vùng đệm của Vườn Quốc gia Cúc Phương. Hang có hình ống dài trên 50m, rộng trung bình 10m. - Di tích Hang Mang Chiêng (hay còn gọi là Vang Chiêng): nằm trong địa bàn của Vườn Quốc gia Cúc Phương, trước cửa hang có hai cây Vông lớn nên nhân dân còn gọi là hang Cây Vông. - Di tích Hang Mộc Long và Mái đá Mộc Long: nằm trên một phía của núi Chùa thuộc xã Thành Minh. Sau quá trình nghiên cứu, khai quật hang Con Moong và các di tích phụ cận, các nhà khoa học bước đầu nhận xét, đánh giá những giá trị nổi bật: - Cấu tạo địa tầng và tầng văn hóa ở di tích hang Con Moong và các di tích phụ cận cho thấy, đây là di tích cư trú, mộ táng của cư dân thuộc nhiều thời kỳ. Hang Con Moong là 1 trong số rất hiếm di chỉ khảo cổ học, có địa tầng dày và được bảo tồn tốt nhất hiện nay ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. - Các di vật khai quật được ở hang Con Moong là những bằng chứng xác thực về truyền thống cư trú trong hang, chế tác và sử dụng công cụ đá với sự thay đổi về loại hình và kỹ thuật chế tác công cụ, từ đó, có thể nghiên cứu sự thay đổi về hành vi, ứng xử của người cổ trước những biến động của cổ khí hậu và môi trường tự nhiên... - Giá trị lịch sử văn hóa nổi bật ở hang Con Moong là sự thích nghi của con người với môi trường trong suốt hàng vạn năm, từ hái lượm săn bắt, tiến dần đến trồng trọt, chăn nuôi... Kết quả khai quật cho thấy, con người đã có mặt ở hang Con Moong từ khoảng 60.000 năm trước, song không thường xuyên. Từ khoảng 25.000 - 20.000 năm trước, khí hậu ấm dần, có thời kỳ xen kẽ ấm và lạnh, người ta cư trú trong hang thường xuyên hơn. Từ sau 20.000 năm là thời kỳ nóng ẩm mưa nhiều, khiến các loài ốc và nhuyễn thể sinh sôi, là nguồn thức ăn thường xuyên của con người, bằng chứng là vỏ nhuyễn thể chất đầy cửa hang, có chỗ dày tới 4m. Từ 11.400 năm đến 8.000 năm là thời kỳ mưa nhiều, người Tiền sử liên tục cư trú ở cửa hang Con Moong. Tại khu vực này đã thu được trong địa tầng rất dày toàn vỏ ốc với hàng trăm công cụ lao động bằng đá, xương, sừng, vỏ nhuyễn thể… với kỹ nghệ chế tác công cụ phát triển từ văn hóa Sơn Vi đến văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn. Từ 7.000 năm cách ngày nay là thời kỳ biển lùi, mưa ít, con người bắt đầu rời hang động dần chiếm lĩnh đồng bằng, ven biển, xác lập các nền văn hóa biển đầu tiên trong thời kỳ Tiền sử. Những dấu tích lớp văn hóa trên cùng ở Con Moong gồm những chiếc rìu mài và gốm văn đập thô sơ tương thích với lớp sớm nhất của văn hóa Đa Bút cho thấy sự chuyển cư của cư dân hang Con Moong đã tiến dần xuống đồng bằng ven biển, lập nên văn hóa Đa Bút. - Song song với việc hoàn thiện khai quật hang Con Moong, các nhà khoa học đã khảo sát, khai quật và nghiên cứu các hang động xung quanh khu vực hang Con Moong. Qua đây cho thấy Con Moong là di tích cổ xưa nhất, có mối quan hệ nhất định với các di tích xung quanh ở các bình tuyến khác nhau. Từ Con Moong, trải qua hàng chục ngàn năm do biến đổi của khí hậu, thời tiết dẫn đến môi trường sinh sống được mở rộng, kỹ nghệ chế tác công cụ lao động, sinh hoạt ngày càng tiến bộ, người nguyên thủy đã tách ra từng bầy nhóm, di chuyển đến các hang động Mang Chiêng, hang Diêm, hang Lai, hang Mộc Long, Mái đá Mộc Long, Hang Đắng (Động Người xưa), hang Bố giáo … Những kết quả nhiên cứu đó đã góp phần nâng tầm giá trị lịch sử - văn hóa của quần thể di tích - hang động khu vực hang Con Moong. Với giá trị tiêu biểu, di tích khảo cổ hang Con Moong và các di tích phụ cận (huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Thanh Hóa 2162 lượt xem
Thành Nhà Hồ là công trình kiến trúc lịch sử ở xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, nơi đây cách trung tâm Hà Nội khoảng 140km. Thành Nhà Hồ được xây dựng từ những năm cuối của thế kỷ 14 tính đến hiện tại đã tồn tại hơn 600 năm. Đến năm 1962, Thành Nhà Hồ chính thức trở thành di tích cấp quốc gia. Năm 2011, di tích lịch sử này được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Thành được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397. Di sản bao gồm: Thành nội, La thành, Đàn tế Nam Giao rộng 155,5 ha và được bao bọc bởi một vùng đệm có diện tích 5078,5 ha. Vị trí của Thành được lựa chọn theo những nguyên tắc phong thủy trong cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp giữa hai dòng sông Mã và sông Bưởi ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ngày nay, tòa thành vẫn còn giữ được 4 cổng thành, các cổng thành được xây bằng những khối đá lớn, nhiều khối đá nặng từ 10 đến 26 tấn. Tường thành có chu vi hơn 3,5km với nhiều đoạn tường thành gần như nguyên vẹn cùng rất nhiều hiện vật lưu dấu nơi từng được coi là kinh đô, trung tâm chính trị, văn hóa, xã hội, đồng thời, là công trình quân sự phòng thủ lớn nhất của Nhà Hồ. Đến thăm Thành Nhà Hồ, du khách không khỏi kinh ngạc về khối lượng đá khổng lồ, cách thức lắp ghép đá xây nên những tường thành, cổng thành đồ sộ, vững trãi. Du khách càng kinh ngạc, thán phục khi biết rằng: ở cái thời cách đây tới hơn 600 năm mà ngôi thành đá to lớn này được xây dựng xong chỉ vẻn vẹn trong thời gian 3 tháng. Giá trị nổi bật của tòa thành là những khối đá nặng hàng chục tấn được ghè đẽo thủ công nhưng đạt đến công năng, hiệu quả sử dụng tối đa, riêng biệt và duy nhất có tại Đông Á những năm cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15. Đây là kỳ tích“vô tiền khoáng hậu” hiện nay vẫn chưa được khoa học lý giải. Các đợt khai quật khảo cổ đã làm xuất lộ những dấu tích kiến trúc cùng rất nhiều hiện vật từng góp mình làm nên một Tây Đô tráng lệ, uy nghiêm. Tất cả đã minh chứng rằng: Thành Nhà Hồ là một kinh đô cổ đã được xây dựng hoàn chỉnh vốn đầy đủ cung điện, đền đài, miếu mạo ở bên trong và được sử dụng liên tục trong suốt tiến trình lịch sử của văn minh Đại Việt. Di sản càng trở nên hấp dẫn, khi trong khu vực nội thành và khu vực làng cổ bao quanh thành có rất nhiều di tích văn hóa - lịch sử và cả những câu chuyện truyền thuyết liên quan đến ngôi thành đặc biệt này. Ngày nay, Thành Nhà Hồ trở thành chứng nhân lịch sử và những giá trị tự thân của nó đương nhiên đã mang “tầm” thế giới khi chính thức ghi tên mình vào “ngôi đền” di sản văn hóa nhân loại. Di sản Văn hóa Thế giới Thành Nhà Hồ giữ vai trò quan trọng, là nguồn tài nguyên vô hạn cho việc khai thác, phục vụ phát triển du lịch. Nguồn: Trang thông tin điện tử Thành Nhà Hồ
Thanh Hóa 2044 lượt xem
Đền Lê Hoàn ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt và được ví là ngôi đền cổ nhất xứ Thanh. Đền Lê Hoàn ở ngôi làng hàng trăm năm tuổi, nơi đã sinh ra vị khai quốc của Triều Tiền Lê hiển hách trong lịch sử dân tộc - Lê Đại hành Hoàng đế. Hiện nơi đây vẫn còn một ngôi đền thờ Vua nằm ở cuối làng được mệnh danh là một trong những ngôi đền cổ bậc nhất xứ Thanh và được công nhận là di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt. Theo sử sách, Lê Hoàn sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Sửu (941) tại trang Kẻ Xốp, huyện Di Phong Châu Ái (nay là làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) trong một gia đình nông dân nghèo. Cha là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị. Năm lên 6 tuổi, Lê Hoàn mồ côi cả cha lẫn mẹ, làm con nuôi cụ Lê Đột ở trang Kẻ Mía (nay là làng Phong Mỹ, xã Trường Xuân, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa). Lớn lên, Lê Hoàn tòng quân phò giúp Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 xứ quân, lập nhiều công trạng và được phong Thập đạo Tướng quân. Ông một lòng phò tá góp phần cùng Vua Đinh vỗ yên trăm họ, đất nước thái bình. Mùa Đông tháng 10 năm Kỷ Mão (979), vua Đinh Tiên Hoàng và con trai cả Nam Việt Vương Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại. Lê Hoàn được cử làm nhiếp chính, giúp ấu Chúa nhà Đinh giữ yên biên cương xã tắc, dẹp tan nội phản, được Thái hậu Dương Vân Nga trao áo long bào. Năm Canh Thìn 980 Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Thiên Phúc. Vua đánh tan quân Tống, giữ yên bờ cõi, chinh phạt Chiêm Thành từng bước khẳng định chủ quyền đất nước dân tộc, cho đúc tiền Thiên Phú chú trọng đến việc phát triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giao thông, thương mại. Sau đó, Lê Hoàn mất ngày 8 tháng 3 năm Ất Tỵ (1005) tại Cố Đô Hoa Lư - tỉnh Ninh Bình, thi hài Lê Hoàn được an táng tại Sơn Lăng, châu Trường Yên, ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi, miếu hiệu là Đại Hành Hoàng đế. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Huyện Thọ Xuân
Thanh Hóa 1995 lượt xem
Số 25, Lê Lợi, Thị Xã Sầm Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Thanh Hóa
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
117, Hồ Xuân Hương, Thị Xã Sầm Sơn, Thanh Hóa, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Thanh Hóa
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ