Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Bắc Kạn 987 lượt xem
Hồ Ba Bể là khu du lịch sinh thái nổi tiếng của vùng Đông Bắc Việt Nam với nhiều phong cảnh kỳ thú và đa dạng về sinh học. Đến với Hồ Ba Bể, du khách sẽ được đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, được thưởng thức những món ăn truyền thống, được khám phá bản sắc văn hóa đặc sắc của đồng bào dân tộc nơi đây… Hồ Ba Bể cách thành phố Bắc Kạn 70km về phía Tây Bắc, nằm ở trung tâm Vườn Quốc gia Ba Bể, thuộc xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể; phía Đông Bắc giáp xã Cao Trĩ và Khang Ninh; phía Đông Nam giáp xã Nam Cường và xã Đà Vị, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang. Đây là một trong những hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam. Năm 1995, Hồ Ba Bể đã được Hội nghị Hồ nước ngọt thế giới tổ chức tại Mỹ công nhận là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ. Hồ được hình thành cách đây khoảng 200 triệu năm về trước do một biến động địa chất lớn, làm sụt lún các dãy núi đá vôi tạo thành, được bao bọc bởi các dãy núi đá vôi xen lẫn sa thạch cổ và các cánh rừng nguyên sinh. Địa chất và địa mạo của khu vực Hồ hết sức phức tạp dẫn đến sự tạo thành các phong cảnh đẹp ngoạn mục với cấu trúc địa chất và đất đai có một không hai, điều đó kéo theo sự hình thành của nhiều hệ sinh thái khác nhau. Qua khảo sát cho thấy sự pha trộn phức tạp của các hệ sinh thái Các-xtơ (hiện tượng phong hóa đặc trưng của những miền núi đá vôi bị nước chảy xói mòn) điển hình và hệ sinh thái phi Các-xtơ trong sự hài hòa với các hệ sinh thái sông hồ. Sự đa dạng về địa chất và sinh học như vậy khó có thể bắt gặp ở các nơi khác trên thế giới. Hồ Ba Bể nằm ở cánh cung sông Gâm, địa hình gồ ghề và cắt xé bởi các ngọn núi cao từ 1.400m đến 1.600m và xen kẽ là các thung lũng. Hồ được nước của hai con sông chảy vào là sông Chợ Lèng và sông Nam Cường rồi chảy ra sông Năng, đổ xuống thác Đầu Đẳng. Hồ Ba Bể được hợp thành từ 03 hồ có tên là Pé Lèng, Pé Lù và Pé Lầm. Hồ có chiều dài hơn 08km, nơi rộng nhất là 02km, diện tích mặt nước khoảng 500ha, độ sâu trung bình 20m, có những nơi sâu đến 35m, có nhiều loài thủy vật và cá nước ngọt sinh sống, trong đó có nhiều loài đặc biệt quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam như cá Chép Kình, cá Rầm Xanh, cá Chiên… Nước Hồ Ba Bể trong xanh, quanh năm mát mẻ, toàn cảnh hồ như một bức tranh thủy mặc, in đậm bóng núi, lồng lộng mây trời, nhìn như một chiếc gương khổng lồ phản chiếu những dãi núi uốn lượn vùng cung ẩn hiện trên mặt nước. Trên mặt Hồ có nhiều đảo nhỏ xinh đẹp như Đảo Bà Góa, đảo An Mạ… Xung quanh Hồ là các bản nhà sàn của người Tày. Sau một ngày dạo chơi trên Hồ, du khách có thể dừng chân ở những nơi này để cùng cảm nhận cuộc sống ấm áp, đậm tình mến khách của bà con dân bản. Khi lựa chọn nghỉ ngơi trên những ngôi nhà sàn rộng rãi và thoáng mát, du khách sẽ được thưởng thức những món ăn truyền thống của người dân miền núi, nhấp chén rượu thơm mùi ngô nếp, hòa mình vào những khúc đàn tính, điệu then, câu sli, slượn, được nghe sự tích Hồ Ba Bể với truyền thuyết về Đảo Bà Góa, thuyền độc mộc… Hồ Ba Bể khoác trên mình sự hùng vĩ của núi rừng, và một nét duyên dáng, mềm mại với làn nước hòa quyện cùng trời đất, núi rừng bao quanh, lúc xanh rêu, lúc xanh lam, khi lại lẫn sắc vàng của bóng cây, khi lại sắc trắng của những đám mây… Nếu một lúc nào đó bạn cần chút bình yên, cần sự tĩnh lặng thì hãy tới Ba Bể. Nơi đó sẽ không làm bạn thất vọng. Ba Bể như một viên ngọc bích giữa núi đồi Đông Bắc, thật trong lành, tinh khiết và thanh tao.
Bắc Kạn 1985 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Vườn quốc gia Ba Bể nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 200 km, là địa điểm du lịch sinh thái lý tưởng cho những ai yêu thiên nhiên và thích khám phá. Xứng danh “bảo vật của núi rừng Bắc Kạn”, vườn Ba Bể luôn khiến du khách phải trầm trồ, mê mẩn mỗi khi có dịp chiêm ngưỡng. Đến đây, bạn sẽ được đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên hoang sơ, ngắm nhìn hệ sinh thái động thực vật đa dạng hay thú vị hơn là thưởng thức những món ngon mang phong vị địa phương. Vườn Quốc gia Ba Bể trực thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, nằm trải dài trên 5 xã Quảng Khê, Khang Ninh, Cao Trĩ, Cao Thương và Nam Mẫu. Được mệnh danh là “bảo vật của núi rừng Bắc Kạn”, nơi đây nổi tiếng với nhiều danh thắng đẹp. Trong đó, nổi bật hơn cả vẫn là Hồ Ba Bể - một trong hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam và thế giới. Vườn Ba Bể sở hữu hệ sinh thái đa dạng với hơn 1.000 loài thực vật cùng 80 loài thú quý hiếm. Bên cạnh sự đa dạng về mặt sinh học, khu vườn Quốc gia này còn thu hút du khách bằng vẻ đẹp mộng mơ hiếm nơi nào có được. Hiện nay, ở Ba Bể đang phát triển rất nhiều loại hình du lịch, hứa hẹn sẽ mang đến cho du khách những trải nghiệm khó quên. Vườn Ba Bể được bao bọc bởi những cánh rừng nguyên sinh và dãy núi đá, quanh năm mát mẻ. Do đó, thời điểm lý tưởng nhất để bạn đi du lịch vườn Quốc gia Ba Bể là vào các tháng mùa hè. Còn nếu bạn muốn tận hưởng không khí lễ hội náo nhiệt và tham gia các trò chơi dân gian thì có thể đi vào tháng Giêng, tầm từ mùng 9 – mùng 10 Tết. Là danh thắng nổi tiếng thế giới, vườn Ba Bể vừa là khu bảo tồn sinh quyển lớn vừa là Ramsar ngập nước trên núi đá vôi. Đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng hệ thống hang động kỳ vĩ, hệ động thực vật đa dạng và quý hiếm. Nếu có dịp ghé thăm khu vườn Quốc gia này, du khách đừng quên list địa điểm bao gồm: Động Puông, Đảo Bà Goá, Thác Đầu Đẳng, Ao Tiên, Hồ Ba Bể, Động Hua Mạ, Hang Thẳm Phầy.
Bắc Kạn 1854 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Động Nàng Tiên toạ lạc trong núi Phja Trạng thuộc tại xã Lương Hạ ( huyện Na Ri). Nằm cách trung tâm tỉnh Bắc Kạn hơn 50km. Nhìn từ phía xa, Động Nàng Tiên tựa như một thiếu nữ đang ngủ say. Động Nàng Tiên nằm sâu trong lòng núi tầm 60m, cửa động rộng 6m và cao 6m, hang động có chiều cao khoảng 30-50m. Xung quanh hang động được bao trùm bởi cây cối nên khi tiến từ ngoài vào hang động du khách sẽ cảm nhận được một bầu không khí mát mẻ, dễ chịu và hương thơm thanh mát, nhẹ nhàng của cây cỏ. Khi tiến vào động, du khách sẽ phải ngỡ ngàng bởi vẻ đẹp ảo diệu do những thạch nhũ và cột đá tạo ra. Động Nàng Tiên được biết đến nhờ vẻ đẹp hoang sơ được thiên nhiên ban tặng và những câu chuyện truyền thuyết huyền bí về 7 nàng tiên. Những yếu tố đó đã tô vẽ nên một hang động huyền ảo, thần bí nổi tiếng tại Việt Nam như bây giờ. Bạn có thể ghé thăm Động Nàng Tiên vào bất kỳ thời điểm nào trong năm. Vì xung quanh hang động là cây cối nên bầu không khí ở đây luôn mát mẻ dù là những ngày có nắng gắt. Nhưng hãy lưu ý nếu bạn muốn ghé thăm Động Nàng Tiên từ tháng 5 đến tháng 10 bạn phải chú ý theo dõi dự báo thời tiết, vì trong những tháng này tỉnh Bắc Kạn thường có mưa, sẽ gây ảnh hưởng đến hành trình tham quan Động Nàng Tiên của bạn. Khi tiến vào cửa hang động, bạn sẽ như đang tiến vào một thế giới khác hoàn toàn. Bóng tối bên trong hang động đối ngược với ánh sáng bên ngoài sẽ làm các giác quan của bạn trở nên nhạy cảm hơn. Bạn sẽ cảm nhận được rõ ràng tiếng róc rách của dòng nước chảy, cảnh vật mờ ảo do hơi nước mang lại, bầu không khí dịu nhẹ… Lối vào trong của Động Nàng Tiên được bao bọc bởi những phiến đá mang cảm giác mát lạnh. Nhìn lên trên trần hang động, bạn sẽ thấy được những thạch nhũ hình thành cách đây hàng triệu năm về trước. Có những thạch nhũ đã xuất hiện từ rất lâu, như những tháp đá chảy ngược từ trên trần hang động chạm đến dưới lòng đất tạo thành những cột đá vững chắc làm cho hang động nơi đây càng thêm phần kiên cố. Đi sâu vào bên trong là không gian trung tâm rộng lớn của Động Nàng Tiên. Được bao quanh bởi các hang động nhỏ bé khác làm cho khung cảnh nơi đây càng thêm lung linh, huyền ảo. Các thạch nhũ, phiến đá với hình dáng lạ mắt được hình thành từ lâu đời trên trần hang động sẽ làm bạn liên tưởng đến những đoá hoa tuyệt đẹp. Mọi ngóc ngách trong Động Nàng Tiên đều gắn liền với một câu chuyện mang đầy nét huyền bí và ảo mộng. Có thể nói đến như “Ao tiên”, theo truyền thuyết lưu truyền thì đó là nơi mà các tiên nữ dùng để tắm và nô đùa hằng ngày. Đi qua “ Ao tiên” bạn sẽ nhìn thấy những bậc thang trũng đọng nước tuỳ vào thời tiết mà lượng nước đọng bên trong nhiều hay ít, khung cảnh đó sẽ làm bạn cảm thấy như đang lạc vào các thửa ruộng bậc thang của người dân miền núi cao. Đó có thể là lý do nơi đây được gọi là “Ruộng tiên”, nơi mà các nàng tiên sẽ trồng trọt và thu hoạch vụ mùa. Tiên cảnh huyền ảo nhất có lẽ phải kể đến “Buồng tiên”, nơi đây được tạo nên bởi vô số nhũ thạch có đủ hình dáng và màu sắc rực rỡ khác nhau và đặc biệt là chỉ có một lối đi. Nhìn thấy tất cả khung cảnh đó bạn sẽ lập tức liên tưởng tới nơi đây là phòng ngủ của các tiên nữ chốn bồng lại tiên cảnh. Vẻ đẹp mờ ảo này còn được tìm thấy ở những khối thạch nhũ lấp lánh đang rũ xuống mặt đất trông giống những mái tóc óng ả, mượt mà của các nàng tiên xinh đẹp.
Bắc Kạn 2038 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 10
Động Puông là địa danh du lịch nổi tiếng tọa lạc tại Vườn Quốc gia Ba Bể, đây là một hang luồn karst thuộc núi đá vôi Lũng Nham trên sông Năng ở huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Động Puông nằm ở phía Bắc của vườn Quốc gia Ba Bể và cách trung tâm thị trấn Chợ Rã tầm 5km. Động Puông được tạo nên do sông Năng chảy xuyên qua dưới núi đá vôi Lũng Nham. Động Puông có chiều dài 300 m, trần động cao hơn 20m và rộng trung bình 30m cùng khung cảnh thiên nhiên kỳ bí. Đặt chân vào bên trong, du khách sẽ được chứng kiến nhiều vách đá dựng đứng cao chót vót cùng các thạch nhũ với hình thù, màu sắc vô cùng đặc biệt. Đây cũng là nơi sinh sống của 23 loài dơi với số lượng lên đến hàng vạn. Động Puông thuộc vườn Quốc gia Ba Bể với nhiều dãy núi đá và các cánh rừng bao bọc xung quanh, lại có thêm hồ Ba Bể đóng vai trò như một chiếc ‘điều hoà không khí’ nên đã giúp nơi đây sở hữu thời tiết mát mẻ quanh năm. Nếu định du lịch tại vườn Quốc gia Ba Bể và ghé động Puông thì du khách nên đến vào mùa hè (tháng 5 đến tháng 9), lúc này bạn sẽ cảm nhận được tốt nhất sự thanh mát tại đây. Ngoài ra từ mùng 9 đến 11 tháng Giêng âm lịch, tại Ba Bể còn diễn ra lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày nữa, nếu có dịp thì nhớ phải sắp xếp tham gian nha. Khác với nhiều hang động, để du lịch động Puông du khách buộc phải đi bằng thuyền vào bên trong, lý do là động Puông được hình thành do sông Năng chảy xuyên qua dưới núi đá vôi Lũng Nham. Khi di chuyển gần đến gần động, bạn sẽ thấy ngay cửa hang không quá lớn, tuy nhiên lại ngập tràn sự hoang sơ. Được khám phá hang động trên những chiếc thuyền độc mộc, lênh đênh từ từ di chuyển vào cửa động chắc chắn sẽ rất thú vị. Vào bên trong động Puông, du khách sẽ lập tức được chứng kiến sự kỳ vĩ của những dải thạch nhũ đa dạng hình thù rũ từ trên cao xuống, cùng với đó là hệ thống những vách đá cao lớn hoang sơ. Không gian bên trong cực kỳ rộng rãi, kết hợp với làn nước bên dưới tạo nên cảm giác rất mát mẻ. Nếu bạn chưa biết thì động Puông có chiều dài lên đến 300m, vòm hang cao hơn 20m. Khi càng di chuyển vào sâu thì không gian động Puông sẽ càng tối lại, ánh sáng yếu dần đi. Lúc này bạn sẽ cần đến một chiếc đèn pin để nhìn rõ khung cảnh xung quanh mình. Từ đây du khách sẽ thấy rõ hơn nhiều khối thạch nhủ đổ dọc xuống như thác, nhiều khối đá xám xịt đa dạng hình thù xếp chồng lên nhau rất kỳ lạ. Chưa hết, trong lòng động Puông còn có một bãi bồi khá bằng phẳng, thuyền có thể đến và neo lại giúp du khách đi vào bên trong động dễ dàng. Động Puông gồm 2 động liền nhau là Động Trên và Động Dưới hay còn có tên khác là Puông Tềnh và Puông Tẩu. Đường đi tại đây rất dễ di chuyển, cũng nhờ vậy mà rất nhiều bức ăn check-in “nghìn Like” đã ra đời tại đây. Hiện nay, động Puông là địa danh du lịch được rất nhiều du khách lựa chọn ghé thăm. Đến đây ngoài động Puông, du khách còn có thể lựa chọn tham quan thêm nhiều địa danh khác tại vườn quốc gia Ba Bể như là hồ Ba Bể, thác Đầu Đẳng, động Hua Mạ, đền An Mã, thác Bạc Bản Vàng,...
Bắc Kạn 1817 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 9
Thác Đầu Đẳng là một trong những biểu tượng của du lịch Bắc Kạn, thu hút du khách bằng vẻ đẹp hùng vĩ nhưng cũng không kém phần nên thơ. Bắt nguồn từ dòng sông Năng, len qua những vạt rừng, vách đá, nơi đây quả thật là bức tranh nhiên ấn tượng, điểm đến lý tưởng cho các chuyến nghỉ mát cuối tuần. Thác Đầu Đẳng là con thác được hình thành bởi dòng sông Năng, thuộc Vườn Quốc gia Ba Bể, cách trung tâm thị trấn Chợ Rã, Bắc Kạn chừng 16 km. Dòng sông len hỏi dưới ngọn núi đá vôi Lũng Nam, tạo thành động Puông. Khi chảy đến bản Hua Tạng của xã Nam Mẫu thì bị chặn lại bởi hàng trăm tảng đá lớn nhỏ. Ở vị trí này, địa hình có độ dốc tầm 500 m, nhờ đó mà sinh ra thác nước Đầu Đẳng hùng vĩ và ấn tượng như ngày nay. Thác nước đổ mạnh xuống hẻm sông Năng, luồn qua các tảng đá vôi khổng lồ xếp chồng lên nhau. Thác được chia thành 3 đoạn, đoạn đầu tiên nước đổ từ trên cao xuống với lực mạnh và khá khúc khuỷu. Đoạn thác thứ 2 nước rẽ thành 2 dòng khác nhau, đoạn thứ 3 nước chảy êm đềm, mang vẻ đẹp mộng mơ, cuốn hút du khách. Không chỉ nổi tiếng nhờ cảnh sắc trời ban, thác Đầu Đẳng Bắc Kạn còn có ý nghĩa to lớn với nền nông nghiệp địa phương. Hàng năm, dòng nước của con thác này sẽ chuyên chở một lượng lớn phù sa từ thượng nguồn về làm cho cây cối, ruộng đồng thêm phần xanh tốt. Giờ đây, cùng với Hồ Ba Bể, thác nước Đầu Đẳng là điểm du lịch Bắc Kạn hấp dẫn mà du khách không nên bỏ qua. Thông thường, khi đi du lịch, du khách sẽ kết hợp tham quan Hồ Ba Bể và thác Đầu Đẳng. Do đó, bạn phải chọn những thời điểm phù hợp để khám phá được trọn vẹn cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp ở cả 2 địa điểm này. Mùa đông, thời tiết ở đây khá lạnh, mùa hè và mùa thu sẽ có những cơn mưa bất chợt. Chính vì vậy, nếu có cơ hội, du khách nên đến thác vào các tháng mùa xuân, cảnh đẹp mà thời tiết cũng khá thuận lợi. Nếu muốn chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của con thác và cần ánh sáng đẹp để chụp hình thì buổi sáng là thời gian lý tưởng nhất để khởi hành. Thác Đầu Đẳng là một những danh thắng nổi tiếng nhất ở Bắc Kạn, có sức hút đặc biệt đối với du khách. Dòng nước từ trên cao đổ xuống, va chạm với đá tạo nên tiếng động vang dội, cách vài km vẫn có thể nghe rõ. Đến gần hơn với con thác, du khách sẽ được ngắm nhìn vẻ đẹp kỳ vĩ của thác nước và phong cảnh núi rừng. Từ dưới nhìn lên, nước tung bọt trắng xóa, tạo nên những hình ảnh lấp lánh, đẹp đến nao lòng. Vào những ngày đẹp trời, ánh nắng sẽ chiếu xuyên qua mặt nước làm cho bọt nước trông giống hệt những viên kim cương được cất dấu dưới đáy dòng thác. Cảnh tượng ấy khiến không ít du khách phải thốt lên kinh ngạc vì cái đẹp hoang dại pha chút huyền ảo, hiếm có vô cùng. Bao quanh con thác Đầu Đẳng là rừng núi bạt ngàn, xanh mướt, tạo nên bầu không khí trong lành, thoáng đãng. Cây cối mọc len lỏi giữa những vách núi hùng vĩ minh chứng cho sức sống mãnh liệt đến khó tin. Dòng nước tuôn xối không một phút giây ngơi nghỉ, đổ xuống dòng sông Năng, luồn qua cả những tảng đá vôi lớn xếp chồng thành thạch trận. Hai bên bờ là những hàng cây xanh tốt, toả bóng mát khắp cả một vùng.
Bắc Kạn 1727 lượt xem
Tháng 4 đến tháng 10
Chùa Thạch Long được mệnh danh là “chùa thiêng trong hang đá”, tọa lạc tại xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Đây là ngôi chùa linh thiêng tại miền Bắc với nhiều câu chuyện cổ tích huyền ảo. Chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XVIII với nhiều câu chuyện tâm linh, đồng thời nó còn gắn liền với một thời kỳ lịch sử khốc liệt của dân tộc. Vào ngày 02/11/2011, chùa Thạch Long đã được UBND tỉnh Bắc Kạn trao bằng công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cổ truyền cấp tỉnh. Hiện nay, ngôi chùa vẫn thu hút được sự quan tâm của các du khách hành hương phương xa tìm đến. Chùa Thạch Long ở Bắc Kạn nên chủ yếu khí hậu quanh năm thoáng mát và dễ chịu, nên bạn có thể đi du lịch Bắc Kạn vào bất cứ thời điểm nào trong năm. Trong đó, thời điểm lý tưởng nhất để đến Bắc Kạn đó chính là vào mùa hè (từ tháng 5 - 7) bởi thời điểm này bạn sẽ chiêm ngưỡng được những cảnh sắc thiên nhiên tuyệt diệu nhất. Đến chùa Thạch Long vào khoảng tháng 5 đến tháng 7 bạn sẽ cảm nhận được sự khác nhau giữa 2 kiểu không khí khi ở trong hang và ngoài hang, đồng thời bạn đến vào thời điểm này cũng dễ dàng đi đến chùa Thạch Long. Ngôi chùa hiện vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện cổ tâm linh, theo người dân ở Bắc Kạn, ngày xưa, người dân xã Vi Hương - Bạch Thông xuôi dòng sông Cầu rước tượng Phật Thích Ca về bằng thuyền thờ Hoa Sơn. Tượng Phật rất nặng nên khi ngược lên Vi Hương, đến vằng Bó Mi, xã Cao Kỳ thì thuyền cứ xoay tròn không đi được.Cho đến khi trời đã tối, người đi rước tượng phải căng lều ngủ lại Bó Mi để sang hôm sau tính tiếp. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, những người đi rước tượng hốt hoảng không thấy Đức Phật đâu, họ đành thắp một bó nhang to và khấn mong được biết Đức Phật đang ở đâu sẽ lập đền thờ cúng ở đấy. Chưa kịp dứt lời thì nhang khói bay sang bên kia bờ sông, luồn mãi vào trong hướng núi. Đi theo hướng khói ấy, họ đã phát hiện tượng Phật đã ngự tọa tại chỗ cao nhất trong một hang động tuyệt đẹp và rộng rãi. Cảm thấy sự huyền bí của Đức Phật, người dân xây dựng chùa ngay tại đây, và đặt tên là Thạch Long (Rồng Đá), ý muốn nói đây là ngôi chùa nằm trong hang đá thiêng. Chùa Thạch Long được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XVII nên cũng đã phần nào chứng kiến được lịch sử hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Chùa Thạch Long vào thời gian đó còn được bộ đội ta sử dụng làm kho cất vũ khí. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã đến thăm nơi này 3 lần. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, chùa đã trở thành trạm vận chuyển vũ khí và kho vũ khí bí mật của quân đội ta khi chiến đấu. Tới năm 1986, chùa Thạch Long mới được chính quyền sở tại và người dân địa phương phục hồi phần nào. Hiện nay chùa được xem là công trình tiêu biểu nhằm đáp ứng cho mong muốn sinh hoạt về văn hóa tinh thần người dân.
Bắc Kạn 1793 lượt xem
Tháng 5 đến tháng 7
Khu di tích An toàn khu (ATK) Chợ Đồn, thuộc địa bàn 3 xã: Bình Trung, Nghĩa Tá, Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. ATK Chợ Đồn thuộc quần thể di tích Chiến khu Việt Bắc (bao gồm ATK Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên và ATK Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang), là nơi ở và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Trung ương trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954). Di tích ATK Chợ Đồn là căn cứ địa chiến lược, chứng kiến và ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng trong thời kỳ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 và thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954); gắn với sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí: Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Hoàng Văn Thái, Nguyễn Chí Thanh, Trần Đăng Ninh… Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, Chính phủ đã hoạch định đường lối kháng chiến, đưa ra những quyết sách mang tầm chiến lược, quyết định vận mệnh của đất nước trong một giai đoạn lịch sử đấu tranh gian khổ, lãnh đạo toàn dân, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nằm trên địa bàn 3 xã phía Nam huyện Chợ Đồn, nơi có địa hình rừng núi hiểm trở, độ cao trung bình là 600m, hệ thống sông, suối, khe, ngòi khá dày đặc, lớn nhất là sông Phó Đáy, Khu ATK Chợ Đồn, bao gồm 25 di tích, trong đó có: 6 di tích đã được xếp hạng quốc gia, 3 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, 16 di tích đưa vào danh mục kiểm kê. 1. Di tích Đồi Pù Cọ (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi hai đoàn quân Nam tiến và Bắc tiến gặp nhau tháng 10/1943) 2. Di tích Lán đồng chí Võ Nguyên Giáp (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và hoạt động cách mạng của đồng chí Võ Nguyên Giáp, sau khi con đường Nam tiến được khai thông năm 1943). 3. Di tích Khuổi Khít (thôn Nà Cà, xã Nghĩa Tá - nơi tổ chức triển lãm biểu dương lực lượng Đồng Minh thời kỳ trước năm 1945). 4. Di tích Nhà ông Triệu Phú Dương (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi các đồng chí lãnh đạo của Mặt trận Việt Minh hội họp trong suốt thời kỳ tiền khởi nghĩa 1945). 5. Di tích Nà Pay (thôn Nà Kiến, xã Nghĩa Tá - Nơi Bác Hồ dừng chân nghỉ trên đường từ Pác Bó (Cao Bằng) đến Tân Trào (Tuyên Quang) ngày 17, 18, và 19/5/1945. 6. Di tích L-sao L-sô đỗ (Khe Nứa) (thôn Bản Bẳng, xã Nghĩa Tá - Nơi lực lượng Việt Minh đặt cơ sở sửa chữa và tự chế vũ khí thô sơ phục vụ trực tiếp cho hai đoàn quân Bắc tiến, Nam tiến, năm 1943 – 1945). 7. Di tích Bản Ca (thôn Bản Ca, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của Bác Hồ tháng 12/1947) 8. Di tích Nà Kiến (thôn Nà Kiến, xã Nghĩa Tá - Nơi tổ chức Lễ Bế giảng Khóa 2, Khóa 3 Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn vào ngày 28/10/1947. 9. Di tích Khuổi Đăm (thôn Nà Khằn, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và làm việc của Báo Sự thật từ năm 1948 đến năm 1953), nằm ở một thung lũng nhỏ, nơi giao nhau giữa 2 con suối nhỏ, xung quanh là đồi núi cao, cây cối rậm rạp, thuộc phạm vi khoanh vùng bảo vệ khu vực II, chia thành 3 khu vực: 10. Di tích Đồi Bản Tảng (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của đồng chí Hoàng Văn Thái từ năm 1947 - 1954). 11. Di tích Nền lán Chuyên gia (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của chuyên gia từ năm 1947 - 1954) 12. Di tích Nà Đon (thôn Đon Liên, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của cơ quan Hậu cần Bộ Quốc phòng từ năm 1948 - 1951). 13. Di tích Khuổi Đó (thôn Nà Tông, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và làm việc của cơ quan cơ khí Thăng Long từ năm 1948 - 1950) 14. Di tích Khuổi Tói (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của Bác Hồ năm 1948). 15. Di tích Khuổi Dân (thôn 8 Vằng Quân, xã Bình Trung - Nơi Nhà máy giấy Minh Khai đặt cơ sở sản xuất giấy từ năm 1948 - 1952), chia làm 2 khu: 16. Di tích Nhà ông Ma Văn Chương (thôn Nà Phầy, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của đồng chí Nguyễn Chí Thanh từ năm 1948 – 1952) 17. Di tích Nà Chang (thôn Nà Chang, xã Nghĩa Tá - Nơi đặt khu Giao tế (Nhà khách Chính phủ) từ năm 1948 – 1953) 18. Di tích Nà Săm (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của đồng chí Võ Nguyên Giáp năm 1948- 1953) 19. Di tích Khuổi Chang (thôn Bản Pèo, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của Bác Hồ từ ngày 12 tháng 5 đến ngày 1 tháng 6 năm 1949. 20. Di tích Khuổi Áng (thôn Khuổi Áng, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của cơ quan Báo Cứu Quốc năm 1949). 21. Di tích Khuổi Linh (thôn Nà Đeng, xã Nghĩa Tá - Nơi ở và làm việc của đồng chí Trường Chinh và Văn phòng Trung ương Đảng từ năm 1950 – 1951) 22. Di tích Đồi Khau Mạ (thôn Bản Vèn, xã Lương Bằng - Nơi ở và làm việc của đồng chí Phạm Văn Đồng và Văn phòng Chính phủ năm 1950 - 1951). 23. Di tích Nà Quân (thôn Nà Quân, xã Bình Trung - Nơi đặt Hội trường Trung ương Đảng từ năm 1948 – 1952). 24. Di tích Nhà ông Trần Văn Lý (thôn Nà Phầy, xã Bình Trung - Nơi ở và làm việc của cơ quan Bộ Quốc phòng từ năm 1950 – 1953). 25. Di tích Nà Pậu (thôn Bản Thít, xã Lương Bằng - Nơi Bác Hồ ở và làm việc từ năm 1950 – 1951), nằm trên một khu đất rộng: Ngày nay, khu di tích ATK Chợ Đồn trở thành địa chỉ đỏ khơi dậy niềm tự hào dân tộc; tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, truyền thống đấu tranh cách mạng của các thế hệ cha anh đi trước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Với những giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử An toàn khu (ATK) Chợ Đồn (huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Bắc Kạn 2236 lượt xem
Di tích lịch sử Khuổi Linh (thuộc xã Nghĩa Tá, huyện Chợ Đồn) là nơi ở và làm việc của đồng chí Trường Chinh, nguyên Tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng và văn phòng Trung ương từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1950. Nơi ở của đồng chí Trường Chinh nằm trên sườn đồi, chỗ làm việc nằm trên đỉnh một mỏm đồi kê sát nơi ở thuộc chân núi Khau Bon. Khu vực văn phòng Trung ương Đảng nằm trên một quả đồi gần nơi ở của đồng chí Trường Chinh. Khu di tích Khuổi Linh ở vào vị trí rất hiểm trở nhưng giao thông lại rất thuận lợi cho việc liên lạc đi các hướng. Ngày 18/3/1996, Khuổi Linh được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Năm 2000, xã Nghĩa Tá được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Di tích lịch sử Đồi Khau Mạ thuộc bản Vèn, xã Lương Bằng (Chợ Đồn) là nơi đồng chí Phạm Văn Đồng - nguyên Thủ tướng Chính phủ cùng cơ quan Văn Phòng Chính phủ ở và làm việc từ đầu năm 1950 đến mùa hè năm1951. Tại nơi này, đồng chí Phạm Văn Đồng đã cùng với Trung ương Đảng, Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân Dân Việt Nam dưới sự chỉ đạo của Chủ Tịch Hồ Chí Minh tổ chức họp bàn mở chiến dịch biên giới năm 1950, mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam. Có thể nói, trong thời kì ở chiến khu Việt Bắc, đặc biệt là thời kì sống và làm việc ở Khau Mạ - Bản Vèn (Lương Bằng), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã có nhiều hoạt động tích cực cùng với Trung ương Đảng và Bác Hồ lãnh đạo nhân dân đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Năm 1996, nhân dân xã Lương Bằng đã vinh dự đón nhận Bằng di tích lịch sử do Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 2202 lượt xem
Đồn Phủ Thông nằm trên địa bàn thị trấn Phủ Thông, huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. Toàn bộ khu vực này là núi đất với độ cao trung bình trên 350m. Đồn được xây dựng trên một mỏm nhỏ nhô ra của núi Nà Cọt, độ cao gần 200m, cách ngã ba Phủ Thông 300m. Ngày 7/10/1947, binh đoàn đổ bộ đường không của quân viễn chinh Pháp với gần 1.200 tên đã nhảy dù xuống thị xã Bắc Kạn, ngày 15/10 chúng tiến quân lên chiếm đóng Đồn Phủ Thông. Đồn dài 100m, rộng 50m; tường đắp bằng đất dày 1m, cao 2m, trong và ngoài tường ghép gỗ, bên ngoài có cọc chống, bốn phía có nhiều lỗ châu mai, bốn góc đồn có 4 lô cốt mẹ, có đài quan sát. Nhà chỉ huy ở chính giữa đồn, địch đào hầm từ nhà chỉ huy, nhà lính thông đến các lô cốt. Ngoài bờ tường có 3 lớp hàng rào tre nứa. Trong những năm 1947 - 1948, khi địch mới chiếm đóng Đồn Phủ Thông liên tiếp gặp phải các trận công đồn của quân ta, khiến cho chúng tinh thần hoang mang. Trong đó, trận tập kích lần thứ nhất đêm 30/11/1947 đã tiêu diệt và hạ thương 50 tên địch, thu 2 súng máy, 1 súng trường. Đây là lần đầu tiên quân địch bị tiêu diệt ngay tại sào huyệt có công sự kiên cố. Ta thực hiện một phần nhiệm vụ đề ra, góp phần vào thắng lợi chung của quân và dân ta trong Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, làm tiền đề cho trận đánh tiếp theo. Đêm 12/3/1948, quân ta mở trận tập kích thứ hai vào Đồn Phủ Thông. Trận này, quân ta phá sập phần lớn công sự và doanh trại trong cứ điểm, làm thương vong gần 70 tên địch. Sau trận này, quân ta liên tiếp nắm thế chủ động trên mặt trận đường số 3. Ngày 25/7/1948, Bộ Tổng chỉ huy quyết định mở trận công đồn lần thứ 3 vào Đồn Phủ Thông. Khoảng 18 giờ ngày 25/7/1948, pháo binh của Tiểu đoàn 410 nổ súng, phá sập một phần khu thông tin, phá hủy đường rào giao thông hào bao quanh điểm. Tiểu đoàn 11 chia làm hai mũi tiến công vào Đồn. Quân ta cắt hàng rào dây thép gai, phá hàng rào tre nứa, bắc thang phên trèo qua tường tiến công vào Đồn. Địch hoảng sợ, rút xuống hầm ngầm, quân ta làm chủ chiến trường, thu vũ khí, chiến lợi phẩm. Sau ít phút đầu hoang mang, địch phục hồi lại thế phòng ngự, chống trả quyết liệt, tập trung hoả lực súng máy, súng cối ngăn chặn các đơn vị vào sau, quân ta có một số chiến sỹ hy sinh, bị thương. Trận đánh kéo dài đến 23 giờ đêm. Ta rút khỏi Đồn, tuy không chiếm được cứ điểm nhưng đã tiêu diệt, làm bị thương 3 phần 4 quân số trong đồn, phá hủy nặng nề hệ thống công sự, vật cản, nhà ở trong đồn; thu được 5 trung liên, 4 tiểu liên, 10 súng trường, một số đạn, lựu đạn. Tuy không giành thắng lợi hoàn toàn, song trận đánh Đồn Phủ Thông ngày 25/7/1948 có ý nghĩa to lớn. Sau trận công Đồn Phủ Thông, quân địch ở các cứ điểm không dám càn quét, sạo sục các vùng xung quanh, quân ta giành được chủ động trên địa bàn Bắc Bạch Thông. Trận Phủ Thông được Trung ương Đảng, Bộ Tổng chỉ huy biểu dương. Ngày 27/3/1998, Đồn Phủ Thông được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Ngày 01/6/1999 nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân thị trấn Phủ Thông vinh dự được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 2171 lượt xem
Chùa Thạch Long (Rồng đá) thuộc xã Cao Kỳ, huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn. Nơi đây được mệnh danh là “chùa thiêng trong hang đá”. Ngôi chùa chứa trong mình nhiều sự tích, huyền sử đẹp. Chùa Thạch Long thu hút hàng ngàn khách thập phương tới dự hội và dâng hương cầu phúc, cầu tài mỗi dịp xuân về. Nhiều người nói rằng, đi khắp Bắc chí Nam chưa thấy chùa nào nằm trong hang núi đá rộng, sạch mà thoáng như chùa Thạch Long. Tăng ni Phật tử tới dự hội có thể vào hang lễ Phật tới hàng ngàn người. Chuyện kể rằng, ngày xưa, người dân xã Vi Hương - Bạch Thông xuôi dòng sông Cầu rước tượng Phật Thích Ca về thờ ở làng mình là Hoa Sơn, trên đỉnh dãy núi Phja Bjoóc. Tượng Phật bằng vàng rất nặng nên khi ngược lên Vi Hương phải kéo bằng mảng. Đến vằng Bó Mi thuộc xã Cao Kỳ ngày nay, mảng cứ xoay tròn không sao đi được. Trời đã tối, đêm ấy, người đi rước tượng phải căng lều ngủ tại vằng Bó Mi để hôm sau tính tiếp. Sáng hôm sau tỉnh dậy, họ hốt hoảng không thấy Đức Phật đâu. Người đi rước tượng đành thắp một bó nhang to và khấn: “Nếu ngài muốn ở đây thì con đành thuận theo ý ngài, nhưng ngài hãy cho con biết nơi ngài đang thượng tọa để con cháu đời sau thờ phụng hương khói”. Dứt lời, bó nhang cuộn khói bay sang bên kia bờ sông, luồn mãi vào trong núi. Người rước tượng cứ đi theo khói nhang ấy và phát hiện ra một hang động tuyệt đẹp, rộng thênh thang. Đức Phật Thích Ca đã ngự tọa ở chốn cao nhất. Biết hang đá thiêng, từ đó dân làng lập chùa ngay tại hang đá này. Chùa có tên Thạch Long (con rồng đá) là vì hang động nằm trong núi đá, cổng hang có hình miệng con rồng đang há. Chùa có hai phần chính. Phần thứ nhất là chùa Thiên. Chùa này nằm ở trên cao, có một bậc đá xếp từ chân núi dẫn thẳng lên tới cửa động. Gian cao nhất thờ Đức Phật Thích Ca. Ở gian trung, trên bệ cao nhất có ảnh thờ Bác Hồ. Phần thứ hai của chùa là chùa Âm, đường đến chùa Âm phải đi vòng quanh sườn núi. Cửa vào chùa Âm hẹp hơn chùa Thiên một chút. Lòng hang cũng không rộng bằng chùa Thiên. Ước chừng cao khoảng 6m, rộng 6m và có ngách ăn sâu vào bên trong. Cả chùa Thiên và chùa Âm đều có nhiều tượng thiên tạo hình các Chư Phật. Trong lòng chùa Thiên, vách đá tự chia thành từng múi như những chiếc lọng cao và sang trọng che cho các vị Chư Phật ngồi dưới. Không chỉ chứa trong mình nhiều huyền tích, chùa Thạch Long còn là một di tích lịch sử, là niềm tự hào của bà con xã Cao Kỳ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã 3 lần đến đây. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, chùa trở thành trạm vận chuyển vũ khí và là kho vũ khí bí mật của quân đội ta. Hoà bình lập lại, chùa lại được bà con thờ tự như xưa. Hội chùa Thạch Long được tổ chức vào mùng 7 tháng Giêng hằng năm, thu hút rất nhiều du khách thập phương, họ đến để dâng hương cầu may mắn, hạnh phúc cho gia đình và người thân. Chùa Thạch Long không những là thắng cảnh đẹp của Bắc Kạn, mà còn là một di tích lịch sử. Di tích này đã và đang nhận được rất nhiều sự quan tâm, bảo vệ, tôn tạo để trở thành điểm du lịch văn hoá hấp dẫn của tỉnh Bắc Kạn. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 2080 lượt xem
Địa danh Nà Pậu - xã Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Cùng với di tích lịch sử Bản Ca, Khuổi Linh, Đồi Pù Cọ, Khau Mạ, Nà Quân và Nà Pậu là nơi Bác Hồ đã sống và làm việc đầu năm 1951. Đầu năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến làm việc tại Nà Pậu, thuộc bản Thít, xã Lương Bằng (Chợ Đồn). Trên quả đồi này, Trung ương Đảng đã cho làm hầm, dựng lán để Người làm việc. Nà Pậu - nơi Người ở và làm việc có địa thế rất thuận tiện cho hoạt động cũng như khi di chuyển để tránh tai mắt kẻ thù. Phía trước đồi Nà Pậu là một đám ruộng rộng, có khả năng quan sát phía xa, bên cạnh là một con suối trong vắt cung cấp nguồn nước, phía sau liền với cánh rừng đại ngàn mà khi có động, Người và các đồng chí trong cơ quan có thể rút thẳng sang xã Phong Huân, Nghĩa Tá hoặc sang thẳng Chiêm Hóa (Tuyên Quang) rất an toàn. Từ Km 18, đường 254 Chợ Đồn - Thái Nguyên, men theo con đường mòn của bản Thít khoảng 150m là đến đồi Nà Pậu. Nhà của Người có hai gian, một gian để làm việc, một gian để nghỉ ngơi và một nhà khoảng 6 gian để cho anh em cơ quan (đơn vị 41) ở”. Cách nền nhà khoảng 70m đi về hướng Tây là căn hầm trú ẩn của Hồ Chủ tịch. Căn hầm có hình chữ T, chiều cao cửa hầm là 1,5m, đi sâu vào 4m thì chia làm 2 ngách cân đối. Tuy thời gian đã lâu, mưa xói đất lấp mất một chút cửa hầm nhưng căn hầm vẫn như còn được giữ nguyên vẹn. Từ hầm của Hồ Chủ tịch đi ra phía trước khoảng 5 - 6m có một cây cổ thụ khá lớn, có tuổi khoảng 90 - 100 năm, dân địa phương gọi là cây Phay. Trước cửa hầm là một khu đất bằng phẳng, nơi trước đây Người thường tăng gia trồng rau… Trước đồi Nà Pậu là suối Nà Pậu, bên cạnh có 2 cây đại thụ đan chéo nhau, dưới tán cây có tảng đá to, nơi Người thường câu cá, tắm giặt. Tại Nà Pậu, Người đã viết nhiều bức thư và điện mừng gửi tới các cơ quan, đoàn thể trong và ngoài nước. Ngày 20/1/1951, Người ký quyết định khen thưởng các đơn vị bộ đội đã chiến thắng trong chiến dịch Trung Du và Đông Bắc, đồng thời gửi 4 lá cờ danh dự để trao tặng cho các đơn vị bộ đội đạt nhiều thành tích và lập nhiều chiến công xuất sắc. Cũng trong thời gian này, Người đã ký nhiều quyết định quan trọng góp phần đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta đến thắng lợi. Người còn đi thăm một số cơ quan của Trung ương Đảng, quân đội đóng trên địa bàn Chợ Đồn, động viên tinh thần cán bộ, chiến sỹ, đồng bào hăng hái thi đua giết giặc và lao động sản xuất phục vụ kháng chiến. Chiều ngày 27/2/1951, Hồ Chủ tịch rời Nà Pậu - Lương Bằng lên đường đi dự Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng ở Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Ngày 28/6/1996, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận và xếp hạng Di tích Đồi Nà Pậu xã Lương Bằng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 2046 lượt xem
Di tích lịch sử Bản Ca, xã Bình Trung, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn. Đây là nơi Bác Hồ từng sống và làm việc trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Người đã ở Bản Ca từ ngày 7/12/1947 đến cuối tháng 12/1947. Ban đầu Người cho dựng lán trại ở đầu suối Bản Ca, sau đó cho dựng thêm một lán nữa ở đồi Khau Phay gần dân trong bản. Hai lán này cách nhau 800m, bên cạnh có lán đặt máy chữ để in ấn và soạn thảo tài liệu, máy soạn thảo văn bản và lán của các chiến sĩ bảo vệ. Theo người dân nơi đây kể lại, trong thời gian sống và làm việc tại đây, Người sống rất giản dị và gần gũi với nhân dân, cũng mặc áo nâu, đeo túi vải như người dân. Người làm việc có giờ giấc, sau giờ làm việc, Người thường tập thể dục và tham gia trồng rau xanh cùng cán bộ trong Phủ Chủ tịch. Người thường xuyên đến thăm các đồng chí lãnh đạo Trung ương Đảng khác ở Chợ Đồn nhưng thỉnh thoảng mới đi ngựa còn lại là đi bộ. Trong thời gian ở đây, Bác Hồ đã từng ra nhiều sắc lệnh, chỉ thị, thư từ như: Người kí sắc lệnh khen thưởng các chủ tịch kiêm hành chính xã nhân kỷ niệm một năm ngày toàn quốc kháng chiến. Ngày 8/12/1947, Người đã viết thư gửi giám mục Lê Hữu Từ nhân dịp lễ giáng sinh. Ngày 12/12/1947, Người viết thư gửi Chính phủ Cao Miên giải phóng (Cam-pu-chia) hoan nghênh việc thành lập Ủy ban giải phóng Việt-Miên-Lào. Ngày 19/12/1947, Người ra lời kêu gọi đồng bào thi đua giết giặc lập công nhân ngày toàn quốc kháng chiến, và kí thông tư gửi các Bộ về việc “cử các nhân viên làm việc đắc lực để khen thưởng”. Nhân kỉ niệm 3 năm ngày thành lập Giải phóng quân Việt Nam, Người đã viết bài về quá trình phát triển của lực lượng vũ trang nhân dân, và mong muốn lực lượng vũ trang của ta không ngừng trưởng thành về mọi mặt. Ngày 24/12/1947, Người viết thư gửi đồng bào công giáo, mong muốn đồng bào công giáo sát cánh cùng đồng bào chiến sĩ cả nước đánh đuổi thực dân xâm lược. Ngoài ra, Người còn viết rất nhiều bài báo cổ vũ động viên đồng bào cả nước tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược… Hiện nay, chứng tích còn lại của khu vực lán Bác Hồ tại bản Ca chỉ còn lại dấu tích của nền lán cạnh cây cọ già. Hai hiện vật là kiềng nấu ăn cho Bác Hồ và chiếc áo dạ đen Người tặng cho gia đình cụ Bàn Văn Trai (cụ Nhuôi). Đầu năm 1990, gia đình cụ Trai đã tặng lại hai hiện vật này cho bảo tàng Bắc Thái (cũ). Hiện nay hai hiện vật này vẫn được lưu giữ tại bảo tàng Thái Nguyên. Ngày 28/6/1996, Bản Ca đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bắc Kạn
Bắc Kạn 2010 lượt xem