Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Bình Dương 587 lượt xem
Suối Trúc Tây Ninh là một trong những tọa độ du lịch tự nhiên mới mẻ, mang đến cho mọi người không gian thiên nhiên khoáng đạt và hơi thở trong lành.
Quanh khu vực suối Trúc núi Cậu được bao bọc bởi đá và hồ nước trong xanh tạo nên một khung cảnh thiên nhiên vừa nên thơ vừa hùng vĩ
Giữa cụm núi Cậu to lớn, dòng suối Trúc Tây Ninh nằm len lỏi, uốn mình giữa khu rừng rộng lớn bạt ngàn
Suối Trúc tọa lạc trên ngọn núi cao nhất trong cụm núi Cậu, ngay gần khu vực hồ Dầu Tiếng nên đường di chuyển tương đối thuận lợi
Suối Trúc Tây Ninh được xem là một trong những tọa độ du lịch vẫn còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ, kỳ vĩ khiến nhiều bạn trẻ thích thú
Khu du lịch Đại Nam được khởi công xây dựng vào năm 1999 và đến năm 2008 thì chính thức mở cửa khai trương đón khách. Đây là khu du lịch ghi nhận rất nhiều kỉ lục như khu du lịch có diện tích lớn nhất Đông Nam Á, bức trường thành dài nhất, sở hữu đền thờ lớn nhất, núi nhân tạo dài nhất, biển nhân tạo lớn nhất, vườn thú thiết kế mở đầu tiên tại Việt Nam. Được chia thành 5 khu vực chính bao gồm trường đua, đền thờ, vườn bách thú, biển nhân tạo, khu vui chơi giải trí với các trò chơi được xếp theo cấp phổ thông, cảm giác mạnh và mạo hiểm khám phá. Khu vực trường đua Đại Nam là một công trình phức hợp đầu tiên ở mảng thể thao tại Việt Nam với sự kết hợp của 5 loại hình: đua ngựa, đua mô tô, go-kart, jet-ski và biểu diễn fly-board. Tất cả cơ sở hạ tầng của trường đua đều được xây dựng theo tiêu chuẩn an toàn, đặc biệt bộ môn go-kart (bước đi cơ bản để tham gia được giải đua xe F1 chuyên nghiệp) lần đầu xuất hiện tại Việt Nam chắc chắn sẽ thu hút được sự tò mò của khách du lịch. Một trong điểm nổi bật khác của khu du lịch Đại Nam chính là đền Đại Nam rộng 9 ha và có cửa chính hướng về Hoa viên Quan Thế Âm Bồ Tát. Đây cũng là nơi diễn ra các lễ hội tầm cỡ quốc gia, tiêu biểu phải kể đến lễ chào mừng Đại Lễ Phật Đản Liên Hiệp Quốc – VESAK cùng các màn trình diễn đặc sắc vào các dịp đại lễ. Ngoài đền Đại Nam, khu du lịch này còn sở hữu một mô hình vườn thú mở được ghi nhận là mô hình đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam với chủng loại đa dạng, có cả những loài thú quý hiếm và đang có nguy cơ tuyệt chủng như hổ Đông Dương, Nai Cà-Tông,… Khu du lịch Đại Nam cũng sở hữu một bãi biển nhân tạo thực sự ấn tượng, thu hút đông đảo các gia đình đưa con trẻ đến đây vui chơi, hòa mình vào làn nước trong xanh vào những dịp lễ hay ngày cuối tuần. Ngoài khu vực biển còn có các lâu đài được nước biển bao quanh cùng các đảo nhỏ và hệ thống tạo sóng mang lại cảm giác chân thật nhất cho du khách như ở biển tự nhiên. Khách du lịch đã đến khu du lịch Đại Nam thì khó lòng mà bỏ qua khu vui chơi giải trí với hơn 40 trò chơi ở nhiều cấp độ khác nhau để đáp ứng nhu cầu vui chơi của mọi đối tượng, mọi độ tuổi. Diện tích rộng lớn của khu vực trò chơi cùng với số lượng đa dạng của các loại hình trò chơi nơi đây hứa hẹn sẽ mang lại cho bạn những giây phút nghỉ ngơi tuyệt vời nhất tại đây.
Bình Dương 2239 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu du lịch Đại Nam hay còn được gọi là Khu du lịch lạc cảnh Đại Nam Văn Hiến hay Đại Nam Du lịch thần tiên. Khu du lịch được xây dựng tại thị xã Thủ Dầu Một, thành phố Bình Dương, chỉ cách thành phố Hồ Chí Minh 40km. Để đi từ Sài Gòn đến đây, bạn chỉ mất khoảng 30 phút lái xe mà thôi. Không chỉ có vị trí và giao thông thuận lợi, địa điểm staycation gần Sài Gòn còn nhiều lắm những điều thú vị. Đền Đại Nam hay còn gọi là Kim Điện từng được ghi nhận là ngôi đền lớn nhất Việt Nam (năm 2007). Đây cũng là nơi thường xuyên diễn ra các chương trình lễ hội đặc sắc trong mùa Phật Đản. Bên trong chính điện tọa nhiều pho tượng lớn như: tượng Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni, tượng Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, tượng Tổ phụ Hùng Vương…Điểm nhấn trong Kim điện chính là các bức tượng, bức phù điêu trang trí dát vàng 24K. Khu vui chơi, giải trí Đại Nam được xây dựng trên diện tích khoảng 50ha vô vàn các trò chơi giải trí khác nhau. Đến khu du lịch Đại Nam, bạn sẽ có cơ hội trải nghiệmtừ trò chơi phổ thông; trò chơi cảm giác mạnh đến trò chơi khám phá như: Xe lửa sâu, Phi thuyền đại chiến, Khủng long lướt gió, Thám hiểm bầu trời, Con tàu lốc xoáy, Ngũ Long cung, Động chằn tinh, Trượt tuyết… Dãy núi Bảo Sơn là một công trình điểm nhấn trong quần thể kiến trúc khu du lịch Đại Nam. Dãy núi Bảo Sơn được xem là dãy núi nhân tạo cao nhất Việt Nam. Công trình này bao gồm 5 ngọn núi với độ cao lên tới 65.8m. Bên trong dãy núi này là những bức tượng hoành tráng như tượng Bồ Tát, tượng Di Lặc,… Vườn thú Đại Nam là một vườn thú mở quy mô lớn nhất cả nước. Ở đây có rất nhiều loài động vật quý hiếm, một số loài còn có tên trong sách đỏ như: công trắng, tê giác, hổ trắng Nam Phi, báo lửa… Điều đặc biệt nhất, phần lớn các con thú tại đây được nuôi thả tự nhiên, không bị nhốt trong chuồng để đảm bảo chúng có một môi trường sinh sống lý tưởng nhất. Không chỉ sở hữu dãy núi nhân tạo lớn nhất, khu du lịch Đại Nam còn sở hữu một bãi biển nhân tạo lớn nhất Việt Nam. Đây là nơi lúc nào cũng thu hút đông đảo du khách với làn nước mát lạnh, trong xanh; những con sóng nhân tạo cảm giác hứng thú chẳng khác gì tắm biển tự nhiên. Với quy mô hơn 22ha, bãi biển Đại Nam được chia thành 2 khu vực: biển nước ngọt và biển nước mặn.
Bình Dương 2168 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Hội Khánh là một ngôi chùa cổ Phật giáo được Thiền sư Đại Ngạn (thuộc dòng Lâm Tế) khai sơn năm Cảnh Hưng thứ 2, đời Lê Hiển Tông, tức năm Tân Dậu (1741) ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Lúc đầu chùa được xây trên một ngọn đồi cao, nhưng vào năm 1861 nó bị phá hủy trong chiến tranh. Chùa được cho xây lại do thầy Thích Chánh Đắc dưới chân đồi khoảng 100 m cách vị trí cũ. Địa chỉ của chùa hiện tại là 29 đường Chùa Hội Khánh phường Phú Cường thành phố Thủ Dầu Một, 30 km về phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh. Chùa nằm cách đường cái 150 m. Sau cổng Tam Quan có chạm rồng phụng chùa tọa trên một vùng dất yên tỉnh với nhiều cây cối, đặc biệt là có bốn cây dầu đã được trồng hơn một thế kỷ không bao lâu sau khi chùa được xây lại. Nơi tụng kinh và phía đông chùa được xây dựng lại vào năm 1917 và phía tây được xây lại vào năm 1984. Chánh điện được xây lại năm 1990 và 1991. Vào ngày 29 tháng 2 năm 1992 Hội Đồng Phật giáo tỉnh Sông Bé cho trùng tu lại những pho tượng lịch sử trong chùa. Diện tích của chánh diện cộng với nơi tụng kinh và phai gian phía bên đông và tây là 700 m². Các tượng Phật tại đây đều được tạo ra do các thợ trong vùng Thủ Dầu Một vào thế kỷ thứ 19. Đặc biệt, Chùa Hội Khánh ở Bình Dương còn gắn với hoạt động của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh). Năm 1923 – 1926, cụ Nguyễn Sinh Sắc cùng với cụ Tú Cúc (Phan Đình Viện) và Hòa thượng Từ Văn đã sáng lập ra Hội Danh Dự tại đây. Tháng 5/2013, tổ chức kỷ lục Châu Á đã chính thức xác lập tượng Phật Nằm tại chùa là “Tượng Phật nhập Niết bàn trên mái chùa dài nhất Châu Á”. Dù được trùng tu và mở rộng nhiều lần nhưng về cơ bản đây là ngôi chùa hiếm hoi vẫn còn giữ được phần lớn kiến trúc ban đầu. Nét nỗi bật của ngôi cổ tự này là giá trị phong phú về mặt lịch sử văn hoá, nghệ thuật kiến trúc, đặc biệt phần lớn những di tích, cổ vật hàng mấy trăm năm được bảo tồn lưu giữ cho đến nay. Hội Khánh còn được xem là ngôi chùa tiêu biểu cho đặc điểm chung của các ngôi chùa cổ Bình Dương. Chính điện và giảng đường được bố trí theo kiểu “sấp đội”, nối liền nhau theo thức “trùng thềm điệp ốc”, một dạng thức kiến trúc phổ biến đối với đình, chùa ở xứ Đàng Trong bấy giờ. Trong khuôn viên Chùa có 4 kiến trúc mang tên 4 thánh tích gắn với Đức Phật, gồm vườn Lâm Tỳ Ni (nơi Đức Phật đản sinh); Bồ Đề đạo tràng (nơi Đức Phật thành đạo), vườn Lộc Uyển (nơi Đức Phật giảng kinh Chuyển pháp luân) và Câu Thi Na (nơi Đức Phật nhập niết bàn). Xung quanh sân chùa là 9 ngôi tháp của 9 vị trụ trì đã viên tịch, được xây dựng công phu. Phía bên trái Chùa còn có ngọn tháp 7 tầng, được phục dựng gần đây, tầng dưới của tháp là nơi trưng bày các văn hóa phẩm của chùa, như băng đĩa, tượng Phật kỷ niệm, chuông mõ… Nội thất kiến trúc, tranh, tượng, đồ thờ tự trong Chùa Hội Khánh đều được điêu khắc, chạm trổ rất tinh vi, với những đề tài như tứ linh, cửu long, dây nho, lá lấp, hoa phù dung. Ngoài ra, Phật đài cao 22m được xây dựng ở khu đất phía trước Chùa. Tầng trệt là dãy nhà dài 64m, rộng 23m dùng làm trường Phật học, thư viện… Tầng trên tôn trí đại tượng đức Bổn sư Thích Ca nhập Niết bàn cao 12m, dài 52m. Đặc biệt có hai bức phù điêu chạm hình 18 vị La Hán và các vị bồ tát, tạo nên một công trình điêu khắc tuyệt mỹ, có giá trị nghệ thuật cao mang đặc trưng của phong cách điêu khắc gỗ Bình Dương xưa. Về phần liễn đối, thơ văn còn lưu giữ phong phú, giá trị khó có ngôi chùa nào sánh kịp. Nhiều người nhắc đến câu đối của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc còn lưu ở chùa Hội Khánh, với ý nghĩa ngôn từ hàm súc của thiền học: “Đại đạo quảng khai thố giác khuê đàm để nguyệt. Thiền môn giáo dưỡng, qui mao thằn thụ đầu phong” (Tạm dịch: mở rộng đạo lớn như sừng thỏ như mò trăng đáy nước. Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa như cột gió đầu cây). Về phần nghệ thuật trang trí nội thất, tranh tượng tự khí thờ phượng được điêu khắc, chạm trổ rất công phu, sắc sảo… đặc biệt phải kể đến bộ bao lam “thập bát La Hán” (tạo tác 1921), bức phù điêu “tứ thời” ốp vào hai cột trước chánh điện; các bàn thờ chạm trổ tinh vi hoàn thành vào năm Ất Sửu (1925). Nhà chùa còn giữ được bộ mộc bản in kinh cách đây trên 120 năm. Đại hồng chung của chùa được đúc vào năm Quí Mùi (1883) do Bổn đạo Dương Văn Lúa hiến cúng. Điều đó cho thấy đạo phật đã phát triển khá sớm và khá vững mạnh tại địa phương này.
Bình Dương 1935 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Năm 2016, Cafe Gió và nước (wNw Cafe) của kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa và cộng sự đã đặt dấu chấm phá đầu tiên tại Bình Dương với công trình thiết kế độc đáo đạt giải nhì giải thưởng Kiến trúc Việt Nam 2006 và kế đến Kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa đã trở thành người Việt Nam đầu tiên đoạt huy chương vàng cuộc thi Giải thưởng Hội Kiến trúc sư Châu Á (Arcasia Awards) năm 2007-2008 với kiến trúc giành giải là công trình "cà phê Gió và Nước" tại Bình Dương. Liên tục gặt hái thành công với các giải thưởng: Giải nhì cuộc thi kiến trúc quốc tế bằng vật liệu tre do Bamboo Technologies Maui (Mỹ) tổ chức 2007; kiến trúc đạt giải thưởng International Architecture Award (IAA) Mỹ năm 2009. Sự xuất hiện đó ngay lập tức thu hút được sự chú ý của những khách hàng hiện đại, sành điệu, yêu thiên nhiên và đã khẳng định được sức hút khác biệt với khách hàng khi đặt chân đến. “Bình Dương đang thay đổi, nhu cầu đang thay đổi bằng nét độc đáo của công trình; chúng tôi sẽ thu hút tất cả những vị khách hàng trong và ngoài tỉnh và cả du khách nước ngoài yêu thích tinh hoa Việt, văn hóa Việt và hồn Việt”, chủ quán nơi đây chia sẻ. Kiến trúc của wNw mới vẫn gần gũi với thiên nhiên và con người; thể hiện ở không gian rộng mở nhìn ra đường phố và qua việc sử dụng các nguyên liệu tự nhiên cây tầm vông, gỗ và đá. hình ảnh café wNw được thiết kế nhằm truyền tải các giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam; đó chính là sự thuần khiết của hoa sen. Khu vườn tre một màu xanh phản chiếu tính cộng đồng gắn kết giữa các thành viên gia đình bạn bè, là địa điểm gặp gỡ, giao lưu lý tưởng cho khách có nhu cầu tìm đến quán café để thư giãn sau những áp lực công việc và sự gò bó ở nhà. Không chỉ là sự kết hợp hài hòa thẩm mỹ về không gian bằng cách sắp đặt nội thất khoa học. Mà quan trọng hơn cả, công trình đã sử dụng năng lượng gió và khả năng làm mát của nước để tạo thành máy điều hòa tự nhiên. Một sự thay đổi đáng chú ý là quầy bar ngay trung tâm quán cũng được tinh chỉnh lại nhằm phục vụ cho nhóm bạn, gia đình, tập thể tổ chức tiệc sinh nhật, party nho nhỏ vào dịp sinh nhật, kỷ niệm ngày đáng nhớ của mình. Trong kế hoạch mới, wNw sẽ có các chương trình giải trí, bốc thăm trúng thưởng, ca nhạc, giao lưu với các ca sĩ đến từ thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương. Giá các loại thức uống, món ăn nhẹ cũng được áp dụng phù hợp với khách hàng kể ca trong và ngoài nước.
Bình Dương 2270 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Khu du lịch sinh thái Thủy Châu được xem là một khu đất xanh giữa vùng đất mới nổi Bình Dương. Hiện tại, tổng diện tích của khu du lịch đã lên đến hàng trăm nghìn mét vuông tất cả đều được bao phủ bởi cây xanh. Bên trong xen lẫn một số công trình hồ nước, thác nước nhân tạo góp phần mang lại không gian mát mẻ, thoáng đãng tựa như ở Đà Lạt cho du khách đến đây. Khi đến Thủy Châu du lịch, các bạn có thể thỏa sức check-in tại những khung cảnh khác nhau, bạn muốn phong cách chất ngất hùng vĩ hay lãng mạn thơ mộng thì nơi đây đều đáp ứng được tất. Ngoài ra, bạn có thể tham gia các hoạt động vui chơi giải trí thú vị để quên hết muộn phiền của cuộc sống thường ngày. Không chỉ đơn thuần là một nơi để bạn đến tham gia những hoạt động mà khu du lịch tổ chức sẵn, các bạn vẫn có thể thoải mái tự chuẩn bị hoạt động dã ngoại của mình. Nhìn chung, đây là một khu du lịch được du khách đánh giá cao từ sự chu đáo trong cách tổ chức nhằm mang lại những điều thoải mái nhất cho du khách. Mặc dù những cảnh quan tại khu du lịch Thủy Châu chủ yếu là nhân tạo nhưng khi đến đây và lên hình bạn sẽ ngỡ ngàng với sự tự nhiên đến từng đường nét. Bạn có thể yên tâm vì ở đây có rất nhiều công trình và địa điểm có thể giúp bạn sở hữu cho một album xịn sò từ trên cạn đến xuống dưới nước. Phải kể đến đầu tiên là thác nhân tạo Thủy Châu, đây là thác có diện tích thuộc top các thác nước nhân tạo “khủng” tại Việt Nam mang lại một khung cảnh hùng vĩ không khác gì những con thác mà thiên nhiên tạo nên. Ngoài ra, một điểm siêu nghệ thuật nữa là những con suối và khe đá được tạo nên sống động như thật hứa hẹn mang đến cho bạn những tấm hình chất ngất. Với không khí mát mẻ cùng sắc xanh của cây cối, thật sự khó mà phân biệt được đây là một khu du lịch nhân tạo. Nhưng dù là gì đi nữa, chỉ có thời gian ngắn ngủi vào cuối tuần mà vẫn có hình đẹp và sang - xịn - mịn thì nơi đây xứng đáng được mười điểm cho “view” chụp ảnh. Giữa những ồn ào, náo nhiệt chốn thị thành, một thiên đường xanh gần ngay trung tâm thành phố như khu du lịch Thủy Châu sẽ là điểm dừng chân lý tưởng cho những ngày dài bận rộn. Thư thái đắm mình giữa cảnh sắc yên bình, tận hưởng bầu không khí trong lành còn gì tuyệt hơn! Khi đến đây, bạn có thể thỏa sức tham gia các hoạt động thú vị ở dưới nước. Nếu bạn là người yêu thích một điều gì đó gần gũi với thiên nhiên thì có thể thả mình vào dòng suối mát lạnh tại thác nước Thủy Châu. Còn nếu bạn thuộc tuýp người yêu thích sự hiện đại thì đến ngay hồ bơi, và nhớ làm vài tấm sang chảnh luôn nhé. Khi đến đây, bạn có thể thỏa sức tham gia các hoạt động thú vị ở dưới nước. Nếu bạn là người yêu thích một điều gì đó gần gũi với thiên nhiên thì có thể thả mình vào dòng suối mát lạnh tại thác nước Thủy Châu. Còn nếu bạn thuộc tuýp người yêu thích sự hiện đại thì đến ngay hồ bơi, và nhớ làm vài tấm sang chảnh luôn nhé. Không những thế, một địa điểm có thể giúp bạn tưởng như mình đang đi sở thú kết hợp du lịch chính là hồ cá sấu nước ngọt. Nếu như đến các khu du lịch miền sông nước bạn được ngồi trên thuyền câu cá thì đến Thủy Châu bạn cũng có thể câu cá, nhưng là câu cá sấu. Nghe là thấy chất rồi đúng không nè? Đến du lịch vào dịp lễ hội, các bạn sẽ được thưởng thức những hoạt động trình diễn nghệ thuật độc đáo khác hòa trong không khí đông vui nhộn nhịp ngày lễ. Chính sự chu đáo từ cách xây dựng đến tổ chức những hoạt động vui chơi, khu du lịch Thủy Châu trẻ trung, năng động này đã thu hút rất lớn lượng khách du lịch. Về phần ăn uống, nếu bạn đi dã ngoại cùng gia đình thì có thể chuẩn bị đồ ăn trước và mang theo. Còn nếu bạn đi du lịch vui chơi thì không cần lo lắng, nhà hàng bên trong khu du lịch sẵn sàng phục vụ những món ăn ngon nhất của vùng với giả cả phải chăng.
Bình Dương 2024 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Châu Thới tọa lạc trên đỉnh núi Châu Thới, một ngọn núi thuộc xã Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Chùa Châu Thới cách thành phố Thủ Dầu Một 20km về phía Tây, tiếp giáp với sông Đồng Nai và nằm gần với trục đường lớn đến các thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Biên Hòa, Bà Rịa - Vũng Tàu… Nhờ sở hữu vị trí địa lý đắc địa, mỗi năm chùa Châu Thới thu hút rất nhiều du khách cả trong và ngoài nước đến tham quan và lễ chùa. Dựa vào các nguồn tài liệu khảo cứu, chùa Châu Thới do Thiền sư Khánh Long thành lập vào năm 1612. Lúc bấy giờ, chùa Châu Thới vẫn còn là một cái am nhỏ và có tên là Hội Sơn Tự. Hơn 300 năm lịch sử, chùa Châu Thới đã trải qua 13 đời trụ trì, để có được diện mạo khang trang như hiện nay chùa đã trải qua hàng chục lần trùng tu. Năm 1930, trùng tu lại nhà thờ Tổ và giảng đường; năm 1971, sử dụng xi măng đắp thành 220 bậc thang leo núi, 220 bậc thang này đến hiện nay vẫn được sử dụng nhằm phục vụ người dân leo núi; năm 1993, trùng tu chánh điện. Những năm gần đây các hạng mục khác như bảo tháp, tượng Phật, rồng chầu… cũng dần được xây dựng và hoàn thành. Chùa Châu Thới cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30km về hướng Đông Bắc. Tại thành phố Hồ Chí Minh, bạn có thể lựa chọn phương tiện di chuyển xe ô tô, xe máy hoặc xe buýt để di chuyển đến chùa Châu Thới. Xe ô tô, xe máy: với quãng đường tương đương 30km, nếu bạn di chuyển bằng 2 phương tiện này thì sẽ mất khoảng 60 phút. Đầu tiên, bạn hãy chạy dọc theo đường Trường Chinh đến xa lộ Hà Nội tại Tân Thới Nhất -> đi dọc theo xa lộ Hà Nội và quốc lộ 1K tầm 25km đến Châu Thới, Bình An, Dĩ An -> Đi tiếp Châu Thới bạn sẽ đến núi Châu Thới tại xã Bình Thắng. Lúc này, bạn sẽ có hai sự lựa chọn: hoặc là leo 220 bậc thang để lên núi Châu Thới, hoặc là chạy thẳng lên một chút sẽ có đường dẫn đến chùa Châu Thới. Xe buýt: từ bến xe miền Tây, bạn bắt xe 601 để di chuyển đến thành phố Biên Hòa Đồng Nai, thời gian sẽ tầm 60 phút -> bắt xe số 5 đi hướng Biên Hòa Chợ To, tuyến xe này sẽ chạy thẳng đến núi Châu Thới, thời gian dịch chuyển tầm 10 phút. Nếu chọn đi đường bộ, tại bậc thang thứ 170 bạn sẽ bắt gặp một tảng đá lớn ngay giữa lối đi, đặc biệt tảng đá này luôn được khách viếng chùa thắp nhang nghi ngút. Mọi người thường gọi tảng đá ấy bằng cái tên thân thuộc “ông Tà”, vị thần giữ cửa chùa. Những năm 1900, trong quá trình đắp lên 220 bậc thang đi bộ, mọi người đã cùng nhau đào bỏ rất nhiều đá. Tuy nhiên, duy chỉ có “ông Tà” dù làm mọi cách cũng không thể nào đào bỏ được. Lúc bấy giờ, sư trụ trì đã dùng sơn và viết lên đó mấy chữ Hán mang nghĩa là “ Tà Lão Trung Sơn” tức ông Tà giữ núi. Từ đó trở đi mọi người dù là dân địa phương hay khách viếng thăm chùa đều hết lòng cúng bái “ông Tà”. Tại chùa Châu Thới, người ta đồn tai nhau rằng các cặp đôi yêu nhau không nên cùng nhau đến chùa vì nơi đây là cổ tự “sát tình yêu”. Tuy nhiên, đây vẫn là một tin đồn vô căn cứ vì mỗi ngày có rất nhiều cặp nam nữ đến chùa để cầu duyên, đến hiện tại họ vẫn hạnh phúc và đến viếng chùa vào những dịp đặc biệt. Du khách đến với chùa Châu Thới, với độ cao của chùa hoàn toàn có thể nhìn thấy mặt hồ trong xanh, tĩnh lặng kết hợp với những tán cây xanh rợp bóng mát tạo nên một khung cảnh tuyệt đẹp được ví như chốn bồng lai tiên cảnh của Bình Dương. Hiện nay, chùa Châu Thới là một quần thể kiến trúc độc đáo, đa dạng và phong phú bao gồm chánh điện, điện thờ Ngũ Hành Nương Nương, Linh Sơn Thánh Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, Thiên Thủ Thiên Nhãn và điện thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế. Kiến trúc độc đáo nhất của chùa là phần mái, tại đây những người thợ đã sử dụng từng mảnh sứ đắp lên thành 9 con rồng. Điểm đặc biệt là 9 con rồng nhìn ra 9 hướng khác nhau với mục đích trấn giữ, phong ấn cho chùa. Đến với chùa Châu Thới, khách quan sẽ có dịp được chiêm ngưỡng những pho tượng Phật lớn, tượng Quán Thế Âm Bồ Tát được các người thợ đúc thủ công bằng đồng hoặc đá cẩm thạch. Đặc biệt, chùa còn lưu giữ ba pho tượng Phật bằng đá cổ và một tượng Quan Âm được làm bằng gỗ mít có tuổi đời lên đến 100 năm.
Bình Dương 2028 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chiến khu Đ được hình thành vào tháng 2-1946 với địa bàn ban đầu bao gồm 5 xã: Tân Hòa, Mỹ Lộc, Tân Tịch, Thường Lang, Lạc An thuộc huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Thị Xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Trong từng giai đoạn lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, phạm vi Chiến khu Đ lại có sự thay đổi. Chiến khu Đ là mật danh chỉ tổng hành dinh của Khu 7, nằm trong hệ thống các khu vực của khu tính theo thứ tự bảng chữ cái (A: Căn cứ giao thông liên lạc, B: Căn cứ hậu cần, C: Khu bộ đội thường trực). Về sau, mật danh Đ được dùng để chỉ luôn cả chiến khu rộng lớn. Ngoài ra, còn có một số cách lý giải khác: Đ mang ý nghĩa là “đỏ”, ý chỉ vùng chiến khu cách mạng kiên cường, một “địa chỉ đỏ” của cả nước; Đ là chữ cái đầu của địa danh Đất Cuốc - nơi bộ đội Huỳnh Văn Nghệ xây dựng cứ điểm đầu tiên; Đ là chữ viết tắt của chiến khu Đồng Nai, chiến khu miền Đông, chiến khu đầu tiên... Trên cơ sở phạm vi ban đầu gồm 5 xã thuộc huyện Tân Uyên, từ năm 1948 trở đi, Chiến khu Đ được mở rộng, lấy đường 16 từ phía tây và sông Đồng Nai từ phía nam làm ranh giới để mở rộng lên phía bắc tới Phước Hòa và phía đông tới sông Bé; sau đó tiếp tục vượt qua sông Bé phát triển mãi lên phía bắc và đông bắc. Dù vậy, phạm vi chủ yếu của chiến khu nằm trên vùng đất: Phía tây giáp đường 16, đoạn từ thị trấn Tân Uyên lên Cổng Xanh; phía bắc giáp sông Bé, đoạn từ cầu Phước Hòa lên Chánh Hưng; phía đông vẫn giáp sông Bé đoạn từ Chánh Hưng đến ngã ba Hiếu Liêm và phía nam giáp sông Đồng Nai, đoạn từ ngã ba Hiếu Liêm về thị trấn Tân Uyên. Sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, từ phạm vi chiến khu cũ (chủ yếu nằm trên địa bàn Tân Uyên), ta chuyển dần trung tâm căn cứ lên phía đông bắc. Đến đầu năm 1975, căn cứ được xây dựng hoàn chỉnh, phạm vi mở rộng tối đa. Lúc bấy giờ, Chiến khu Đ nằm trong phạm vi: Phía nam giáp sông Đồng Nai; phía tây giáp tỉnh Bình Dương và cắt qua địa phận hai tỉnh Phước Long, Bình Long (nay là Bình Phước); phía bắc vươn xa giáp biên giới Việt Nam - Campuchia (đoạn từ Bù Đốp đến Bù Đăng); phía đông giáp các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng. Chiến khu Đ được xem như một trung tâm kháng chiến, là nơi ra đời của các lực lượng vũ trang miền Đông Nam bộ. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Chiến khu Đ là một trong những căn cứ quan trọng của các cấp ủy Đảng, các tổ chức chính quyền và cơ quan chỉ huy quân sự thuộc nhiều huyện, tỉnh lân cận và cả Khu 7, Phân liên khu miền Đông và Nam bộ. Đây cũng là nơi ra đời các đơn vị vũ trang trong những ngày đầu kháng chiến, như: Chi đội 1, Chi đội 10, Trung đoàn 301, Trung đoàn 310, Liên trung đoàn 301 - 310, Tiểu đoàn chủ lực 303, Tiểu đoàn vận tải 320... Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Chiến khu Đ là nơi xây dựng, đứng chân các cơ quan lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang từ huyện, tỉnh, liên tỉnh, quân khu đến Trung ương Cục. Chiến khu Đ là nơi ra đời lối đánh đặc công, khởi đầu là trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên ở Tân Uyên ngày 19-3-1948, để từ đó hình thành bộ đội đặc công, phát triển lối đánh đặc công ra cả nước. Chiến khu Đ còn là nơi gắn liền với những chiến công vang dội của quân và dân miền Đông Nam bộ. Đặc biệt, đây là nơi xuất phát chiến dịch 12 ngày đêm (từ ngày 9 đến 21-4-1975) giải phóng thị xã Long Khánh, đập tan cánh cửa thép Xuân Lộc - tuyến phòng ngự cuối cùng của ngụy quyền Sài Gòn, mở đường cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Tồn tại gần 30 năm (1946-1975), Chiến khu Đ là một dấu son trong trang sử oai hùng của “Miền Đông gian lao mà anh dũng”. Với ý nghĩa lịch sử, tầm vóc và sự đóng góp của Chiến khu Đ qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, ngày 11-5- 2010, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xếp hạng Chiến khu Đ là di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Báo Bình Dương điện tử
Bình Dương 2664 lượt xem
Đình Dĩ An tọa lạc tại khu phố Nhị Đồng 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đình được xây dựng vào năm 1838. Năm 1853, được vua Tự Đức ban sắc phong thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh, là một ngôi đình cổ - nơi bảo lưu những giá trị lịch sử - văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xuân lược, đình là nơi các chiến sĩ cách mạng địa phương rèn luyện, hun đúc ý chí, tổ chức lực lượng để tiêu diệt kẻ thù. Đình là nơi hoạt động của “bộ đội Đào Sơn Tây”. Đặc biệt, trong thời gian kháng chiến chống Mỹ xâm lược, đình còn là nơi dừng chân, trú quân của lực lượng vũ trang tỉnh Thủ Dầu Một. Trong khuôn viên đình, hiện vẫn còn một số hầm bí mật của lực lượng vũ trang. Đồng thời, đình cũng là nơi sinh hoạt văn hóa của nhân dân trong vùng. Nhìn tổng thể kiến trúc, đình Dĩ An được thiết kế dạng chữ “nhất”, gồm: võ ca, võ quy, chánh điện, nhà khách, nhà túc,... Võ ca là nơi làm lễ Xây chầu và hát bội vào mỗi dịp lễ Kỳ yên, được xây dựng bằng bê tông thép và lợp tôn. Sân khấu, được xây dựng cao 0,8m, có hai bức tranh thủy mặc ở hai bên. Võ quy là nơi các chức sắc chầu lễ, cầm chầu (mỗi khi hát bội), hội họp, cũng là nơi chuẩn bị cho buổi ca diễn và dành cho khách. Nơi đây có thiết trí những câu đối bằng chữ Hán. Chính điện là nơi thờ tự chính của đình, với cột, kèo, rui, mè... đều được làm bằng gỗ; mái lợp ngói vảy cá, trên nóc có gắn hình bầu dục và hai con rồng; tường xây gạch; nền lát gạch men màu vàng. Chính điện được chia thành 15 gian, gồm 3 gian thờ chính và 12 gian thờ phụ. Bên trong chính điện được sắp xếp theo bố cục: Gian đầu tiên là nơi đặt bàn thờ Hội đồng nội, có thiết trí bao lam gỗ được chạm trổ rất tinh xảo, sơn son thếp vàng. Tiếp đến là án thờ Giáng Son - nơi thờ sắc phong của thần. Song song với án thờ Giáng Son là án thờ Tả Ban và Hữu Ban. Bàn thờ chính thần được đặt ở vị trí trang trọng, hai bên đặt tượng hai con bạch mã, lỗ bộ, võng điều; ngoài ra, còn trang trí bao làm bằng gỗ sơn son thếp vàng cùng các câu đối bằng chữ Hán. Sau chính điện và phía tây nam của đình là hai dãy nhà khách với nhiều gian nhà được trang hoàng khá trang trọng. Nhà được xây dựng gồm 80 cột gỗ quý, mái lợp ngói móc, toàn bộ được sơn phủ màu đen tạo nên nét cổ kính. Đây là nơi dùng để sinh hoạt và đón tiếp khách trong những ngày lễ cúng đình. Hàng năm, đình có hai lễ cúng lớn là: Lễ Cầu bông (cúng Tiên sư, Tổ nghiệp) diễn ra vào ngày 16-6 âm lịch với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và lễ Kỳ yên được tổ chức vào ngày 15 và 16-11 âm lịch (3 năm đáo lệ một lần) nhằm cầu cho quốc thái dân an. Ngoài ra, đình Dĩ An còn là nơi dung hợp nhiều tín ngưỡng: Thờ Thành Hoàng, Nữ Thần (Ngũ hành nương nương, Diêu Trì Địa Mẫu, Kim Hoa nương nương..); đền thờ Vua Hùng, đền thờ các anh hùng liệt sĩ và các bà mẹ Việt Nam Anh Hùng…thể hiện truyền thống tốt đẹp bao đời của người Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”. Đình Dĩ An được Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương xếp hạng là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh ngày 18-3-2011. Ngày 28-3-2019, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng đình Dĩ An là di tích cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương
Bình Dương 2212 lượt xem
Di tích nhà tù Phú Lợi Hiện tọa lạc trên đường Một Tháng Mười Hai, phường Phú Lợi, thị xã Thủ Dầu Một. Tổng diện tích hiện nay là 77.082m2,đã được nhà nước công nhận và xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia ngày 10/07/1980. Tồn tại suốt tám năm (1957-1964). Nhưng với tinh thần kiên cường bất khuất, các tù nhân Phú Lợi đã đoàn kết anh dũng đấu tranh thắng lợi. Với mưu đồ xâm lược miền Nam, bằng thủ đoạn mị dân, khủng bố đến chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” chỉ trong vòng 2 - 3 năm sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, Mỹ Diệm gây không biết bao nhiêu tội ác trên cả miền Nam. Bằng khẩu hiện “thà bắt nhầm hơn bỏ sót”, chúng đã xây dựng thêm nhiều nhà tù. Nhà tù Phú Lợi là một trong những nhà tù lớn của Mỹ - Diệm ở miền Nam được dựng lên giữa năm 1957 để giam cầm và tra tấn các chiến sĩ cách mạng và những người yêu nước lúc bấy giờ. Số tù nhân chúng đưa về Phú Lợi đầu tiên có 4 nữ và khoảng 100 nam, đến cuối 1957 tăng lên 3.000 tù nhân. Chúng chia trại giam thành nhiều khu vực: khu hành chánh, khu gia đình binh sĩ, khu An Trí Viện – gọi là khu “An Trí Viện” nhưng thực chất là trại giam. Khu trại giam gồm có 3 trại: Chi Lăng, Bạch Đằng, Đống Đa. Cả 3 trại có 9 phòng giam đánh dấu A,B,C,D,… mỗi trại ngăn cách nhau bằng bức tường kẽm gai dày đặc. Bao quanh 3 trại là 2 bức tường cao, có mấy lớp kẽm gai, hệ thống đèn điện chiếu sáng vào ban đêm, hoàn toàn cách biệt với bên ngoài. Ở giữa trại giam có nhà vòm cao để quan sát toàn khu trại. Xung quanh có 4 cổng ra vào và 4 lô cốt canh phòng nghiêm ngặt. Có hai cổng chính: cổng thứ nhất mang bảng “Trung tâm cải huấn Phú Lợi”, cổng thứ hai mang bảng “An trí viện”. Đến cuối năm 1958, số tù nhân lên đến gần 6.000 người, trong đó có 1.000 tù nhân là nữ. Anh chị em tù nhân quê quán ở khắp mọi miền đất nước chẳng may rơi vào tay giặc và bị chúng tập trung về đây. Chế độ khắc nghiệt của nhà tù Phú Lợi cũng không khác ở nhiều nhà tù khác lúc bấy giờ, ăn gạo mục cá ươn, muối hạt, nước mắm có dòi… Sống bẩn thỉu, thiếu nước, nằm xà lim, chuồng cọp, lao động khổ sai bệnh tật không thuốc chữa trị… và những đòn điều tra đánh đập dã man… và chúng đặt ra “24 điều cấm” rất khắc nghiệt để lấy cớ đánh đập tù nhân. Trước những thủ đoạn vừa khủng bố vừa mị dân, những cảnh tra tấn dã man đày ải cực hình, anh chị em trong tù vẫn giữ được lòng kiên định và ý chí kiên cường chiến đấu. Đó là nhờ có sự lãnh đạo của Đảng và sự tự giác tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng của những người yêu nước, những người cộng sản. Qua kinh nghiệm thực tế trong phong trào hoạt động bí mật, nên chỉ trong một thời gian ngắn các Đảng viên ở các trại đã tổ chức được đường dây liên lạc với nhau, các nhóm Đảng viên các chi bộ bí mật lần lượt được thành lập. Đầu năm 1958, Đảng ủy Trung tâm Phú Lợi được thành lập. Suốt những năm tháng ở đây, tù nhân có tổ chức bí mật của Đảng ta chỉ đạo. Ban Đại diện, Tổ Tâm giao, hoặc Đôi bạn đồng hương ở từng trại giam làm nòng cốt đấu tranh, từng bước đấu tranh với kẻ thù đòi cải thiện đời sống, chống đàn áp, chống tra tấn tù nhân. Tất cả là nhờ sự kiên trung của các đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà tù Phú Lợi trở thành một bằng chứng về tội ác của Mỹ – Ngụy tại miền Nam Việt Nam; nơi đây là biểu tượng cho lòng dũng cảm của cán bộ đảng viên, các đồng chí cách mạng và đồng bào yêu nước đã ngã xuống trong nhà tù vì độc lập, tự do, hoà bình, hạnh phúc cho quê hương đất nước. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương
Bình Dương 2094 lượt xem
Di tích danh thắng Núi Châu Thới là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Bình Dương được Bộ Văn hóa- Thông tin xếp hạng là di tích danh thắng cấp quốc gia ngày 21 tháng 4 năm 1989, với những giá trị nổi bật về lịch sử, văn hóa, cảnh quan thiên nhiên. Núi Châu Thới nằm ở vị trí gần quốc lộ 1K thuộc địa phận phường Bình An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Núi Châu Thới cao 85m, trên đỉnh có ngôi cổ tự uy nghi, quang cảnh cây cỏ quanh năm tươi tốt. Theo các nguồn tư liệu khảo cứu, chùa Châu Thới được xây dựng vào khoảng năm 1612 do Thiền sư Khánh Long sáng lập từ một am tranh nhỏ, lúc bấy giờ chùa được mang tên là Hội Sơn Tự. Tuy nhiên, căn cứ vào lạc khoản còn lưu giữ ở chùa có ghi dòng chữ “Tân Dậu niên chánh nguyệt sơ kiến nhật”, có thể xác định chùa Châu Thới được xây dựng vào năm 1681 và là ngôi chùa được xây dựng sớm nhất tỉnh Bình Dương và thuộc nhóm lâu đời nhất Nam Bộ. Hơn 300 năm lịch sử, chùa Châu Thới đã trải qua 13 đời trụ trì; qua quá trình biến động lịch sử, chùa đã được tu tạo nhiều lần: Năm 1930, trùng tu lại nhà thờ Tổ và Giảng đường; năm 1971, đắp xi–măng 220 bậc thang lên núi; năm 1993, Chánh điện được trùng tu. Sau đó, các hạng mục khác như bảo tháp, đại hồng chung, tượng phật, rồng chầu…cũng được xây dựng, hoàn thiện. Bên cạnh những giá trị lịch sử tôn giáo, chùa Châu Thới còn mang những giá trị lịch sử cách mạng của vùng đất Dĩ An. Trong kháng chiến chống Pháp, dựa vào thế núi và ngôi chùa Châu Thới là nơi trú ẩn, hội họp của các nhà hoạt động cách mạng. Với địa thế hiểm yếu lại có các vị sư yêu nước, do đó rất thuận lợi làm điểm hội họp, dừng chân, ẩn náu; chùa Châu Thới đã từng là nơi luyện tập võ nghệ của các hội viên “Thiên địa hội”, nơi dừng chân của quân Đào Tây Sơn và là nơi lánh nạn của các chiến sĩ cách mạng. Các nhân vật nổi tiếng lúc bấy giờ như Huỳnh Văn Nghệ, Huỳnh Tấn Phát cũng từng đến chùa và hoạt động tại đây. Trong suốt 2 cuộc kháng chiến, các chư tăng ở đây đã ủng hộ tiền, gạo, vải, thuốc cho bộ đội; lúc cần kíp chùa Châu Thới đã ủng hộ cả Đại Hồng Chung để công binh xưởng đúc đạn đánh giặc… Chùa Châu Thới được liệt vào một trong những Danh lam cổ tự của Việt Nam; chùa, núi, quang cảnh xung quanh tạo nên một danh thắng phong thủy hữu tình, cảnh trí thơ mộng, xanh mát…các yếu tố kiến trúc hòa quyện, tạo điểm nhấn cho khung cảnh thiên nhiên, làm toát lên những giá trị văn hóa kiến trúc, văn hóa cảnh quan nổi bật. Chùa Châu Thới hiện còn lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị, trong đó có 3 pho tượng Phật được tạc cách đây hơn 300 năm; hệ thống tượng gỗ, tượng đất nung; đặc biệt chùa còn lưu giữ pho tượng Quan Thế Âm bằng gỗ mít trên 100 năm do chính Hòa thượng Thích Thiện Hóa chế tác. Tuy các hạng mục chính của chùa được xây bằng bê tông, cốt thép song được thể hiện bởi những bậc thợ tài hoa nên tổng thể chùa vẫn toát nên vẻ đẹp cổ kính, đậm màu sắc dân tộc. Quần thể chùa, điện trên núi Châu Thới gồm: Chánh điện, nhà Tổ, điện Thiên Thủ Thiên Nhãn, miếu Linh Sơn Thánh Mẫu, điện thờ Diêu Trì Kim Mẫu…một số hạng mục được trang trí bằng các mảnh gốm sứ rất đẹp mắt. Năm 1994, chùa đã vận động bà con đóng góp đúc 4 pho tượng đồng, mỗi tượng nặng trên 1 tấn, cao 2.5m do nhóm thợ kỳ cựu của xứ Huế, đây là những pho tượng đúc đồng đầu tiên tại tỉnh Bình Dương. Ngoài ra, chùa còn có tượng Quan Thế Âm cao 22,5m, cặp rồng lớn bao quanh, cách hàng chục km vẫn có thể nhìn thấy. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc, cảnh quan chùa Châu Thới trên đỉnh núi Châu Thới đã được công nhận là Di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh cấp quốc gia năm 1989. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Bình Dương
Bình Dương 1962 lượt xem
Địa đạo Tây Nam Bến Cát (Tam giác sắt) nằm trên vùng đất 3 xã: An Điền, An Tây, Phú An thuộc khu vực phía Tây Nam thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Với vị trí và tầm vóc trong hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, Địa đạo Tây Nam Bến Cát được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia ngày 18/3/1996, có tổng diện tích 230.000m2. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trước đây, vùng đất 3 xã Tây Nam Bến Cát sớm được nổi danh với Chiến khu An Thành. Thuở đó, An Thành đã từng là nơi dừng chân của các cơ quan đầu não kháng chiến Khu Bộ miền Đông, xứ Ủy Nam bộ, Đặc Khu ủy Sài Gòn - Gia Định,… nhờ đó mà người dân địa phương sớm được giác ngộ cách mạng và đã từng đương đầu với biết bao thử thách ác liệt nhất trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy gian khổ và hy sinh của nhân dân ta. Năm 1948, hệ thống địa đạo đầu tiên xuất hiện từ vùng đất này. Sau đó năm 1960, du kích Củ Chi đến học tập kinh nghiệm và xây dựng hệ thống địa đạo ở địa phương mình. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, kẻ thù đã nhiều lần càn đi xát lại, nhưng chúng không khuất phục nổi lòng dân ở đây. Đến khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân viễn chinh vào trực tiếp chiến đấu ở Miền Nam, năm 1967 bằng đủ loại binh hùng tướng mạnh và những phương tiện giết người hiện đại nhất, chúng mở cuộc càn với quy mô lớn gồm 30.000 quân, 400 xe tăng, 80 tàu chiến, 100 đại bác và nhiều loại máy bay ném bom, kể cả máy bay B52 hòng hủy diệt mục tiêu quan trọng này. Nhưng dựa vào hệ thống địa đạo quanh co, chằng chịt, quân và dân ta lúc ẩn, lúc hiện bí mật bất ngờ mở đợt chống càn quyết liệt. Cuối cùng giặc Mỹ phải rút lui. Với sự thất bại thảm hại, 3.200 tên Mỹ ngụy bị diệt, 149 xe tăng và xe bọc thép bị phá hủy, 28 máy bay bị bắn rơi, 2 tàu chiến bị bắn chìm, bắn cháy… Trong trận này nổi lên anh hùng bắn tỉa - Nguyễn Văn Đực, chỉ 10 viên đạn tiêu diệt 9 tên xâm lược hoặc Võ Thị Huynh - anh hùng lực lượng vũ trang từng lăn mình dưới làn bom đạn để chăm sóc, bảo vệ thương binh. Sau những thất bại liên tiếp, kẻ thù đành bất lực, chúng phải gọi vùng này là vùng “Tam giác sắt”. Địa đạo Tây Nam Bến Cát không đơn thuần mang ý nghĩa địa danh mà nó là biểu tượng cho cách mạng, cho kháng chiến. Với phương tiện thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ky xúc đất bằng tre, quân và dân 3 xã đã tạo nên công trình đồ sộ với hàng trăm con đường hầm ngang dọc trong lòng đất, nối liền các xã với nhau như một ”Làng ngầm”. Các gia đình ở khu vực vành đai, nhà nào cũng đào hầm, hào nối liền vào địa đạo, tạo thế liên hoàn để vừa bám trụ sản xuất vừa đánh giặc giữ làng. Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi sau chiến đấu, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực thực phẩm, nước uống, có giếng nước, hầm nấu ăn, hầm làm việc, chỉ huy, hầm nuôi dưỡng thương binh. Địa đạo Tây Nam Bến Cát với các hoạt động của nó đã giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hai cuộc kháng chiến, nhất là trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Trong suốt 20 năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Địa đạo Tây Nam Bến Cát đã phát huy tác dụng của một địa đạo chiến. Dựa vào hệ thống địa đạo, quân dân 3 xã Tây Nam đã chiến đấu chôn vùi hàng ngàn tên giặc, bắn cháy và phá hủy hàng trăm xe tăng và xe bọc thép… Đặc biệt trong chiến dịch Mậu Thân 1968 và mùa xuân năm 1975, Địa đạo Tây Nam là nơi nhiều cánh quân lớn tập kết từ đây tiến đánh vào Sài Gòn, góp phần vào sự nghiệp kháng chiến thắng lợi của quân dân cả nước năm 1975. Nguồn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Bình Dương
Bình Dương 1674 lượt xem
Đình Tân An - Bến Thế nằm ở khu phố 1, phường Tân An, TP Thủ Dầu Một. Đây là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh được xếp hạng ngày 2/6/2004. Đến ngày 26/4/2014 Đình Tân An được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Đình được xây dựng vào năm 1820 bởi lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất này sinh cơ lập nghiệp. Ban đầu đình chỉ là mấy gian nhà lá đơn sơ nên đặt tên chữ là “Tương An miếu”, do nhân dân của 4 xã: Tương Bình (nay là Tương Bình Hiệp), Tương An (nay là Tân An), Tương Hòa (nay là Định Hòa) và Cầu Định (nay là Tân Định) lập để thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, vị trí đình được đặt tại làng Tương An. Khoảng 30 năm sau đó, tổ tiên dòng họ Nguyễn (làm chức Ban biện) đứng ra chủ trì xây dựng lại ngôi đình với quy mô lớn, có hình dáng như ngày nay. Mặt khác, dòng họ Nguyễn là một trong những lớp cư dân đầu tiên đến vùng đất Tân An khai hoang lập nghiệp và có công trùng tu ngôi đình làng nên được dân làng tôn làm “Tiền hiền - Hậu hiền” và được thờ trong ngôi chánh điện để tỏ lòng thành kính. Vào ngày 19-11 năm Tự Đức thứ 21 (1869), vua Tự Đức ban sắc phong cho đình Tân An nhằm công nhận ngôi đình và phong tước hiệu cho thần Thành Hoàng để nhân dân biết mà thờ tự. Sắc phong luôn được cất giữ tại Nhà thờ dòng họ Nguyễn (hiện là nhà ông Nguyễn Tri Quan). Theo sắc phong vua Tự Đức ban thì vị thần được thờ chính trong đình là Tiền quân cơ Nguyễn Văn Thành, một vị quan triều đình nhà Nguyễn, đại thần của vua Gia Long. Nguyễn Văn Thành là một bậc khai quốc công thần triều Nguyễn, nhưng đã vướng vào trọng án “văn chương” của con trai Nguyễn Văn Thuyên, bị Gia Long nghi ngờ phản nghịch bị bức tử và chỉ được giải oan hơn nửa thế kỷ sau đó (vào năm 1868). Về tổng quan kiến trúc, ngôi đình được làm toàn bằng gỗ Sao, có lối kiến trúc hình chữ Tam, còn gọi là lối sắp đọi, dân gian gọi là đình ba nóc, theo kiểu xuyên trính, hai mái, hai chái, gồm 40 cây cột vuông bằng gỗ, hành lang rộng gồm 30 cột gỗ (do thời gian mưa nắng đã làm cho một số cột ở hai bên hành lang bị hư hại nên được thay bằng cột xây bằng gạch, vôi). Mái đình được lợp toàn bộ bằng ngói vây cá qua nhiều năm mưa nắng mái ngói phủ rêu phong trông rất cổ kính. Trên đình được trang trí hình lưỡng long tranh châu, ở các góc mái trang trí hình cá hóa rồng. Nền lát gạch đỏ (gạch tàu) hình lục giác. Toàn bộ ngôi đình có chiều rộng 50m, dài 70m, được xây trên diện tích hơn 10.000m2. Đặc biệt, toàn nội thất trong đình như hiện vật bàn thờ, tủ thờ, tấm hoành, bao lam, cột gỗ, câu đối… đều bằng gỗ quý được các bàn tay nghệ nhân chạm khắc rất tinh xảo với nhiều chủ đề khác nhau làm tôn lên kiến trúc nghệ thuật độc đáo của đình. Ngoài ra, đình còn lưu trữ một công trình chữ Hán rất phong phú còn lại cho đến ngày nay qua các cặp liễn đối, hoành phi, sắc thần… Hàng năm theo đúng lệ xưa , lễ hội diễn ra trong 3 ngày 3 đêm từ 14 đến 16 tháng 11 (âm lịch) là dịp trăng sáng để bà con thuận tiện vui chơi và đi lại. Đây cũng là dịp thủy triều dâng cao và theo quan niệm của nhân dân đó là điềm của mùa màng bội thu, của vạn vật tốt tươi, tiền của dồi dào… Đình Tân An là một di tích lịch sử - văn hóa mang đậm nét kiến trúc nghệ thuật và danh lam thắng cảnh. Đặc biệt, đình còn lưu giữ Sắc phong của vua Tự Đức. Trong những năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đình Tân An là nơi hoạt động cách mạng của địa phương. Nguồn: Báo Bình Dương điện tử
Bình Dương 1618 lượt xem