Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Điện Biên 581 lượt xem
Khu di tích Chiến trường Điện Biên Phủ gồm 45 di tích thành phần. Đây là một không gian lịch sử và cũng là sản phẩm du lịch nổi bật, góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, nhắc nhở người Việt Nam về ký ức hào hùng của chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đồng thời mang lại giá trị kinh tế cho địa phương. Những ngày tháng 5 lịch sử này, nhiều đoàn khách đổ về thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh Điện Biên) thăm lại chiến trường xưa nhân dịp kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2019). Đã có rất nhiều đổi thay trên vùng đất từng là chiến trường khốc liệt năm xưa, với chiến dịch 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” của quân dân ta, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ nay là một trong số hơn 100 di tích quốc gia đặc biệt của cả nước và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch của tỉnh Điện Biên. Quần thể di tích Chiến trường Ðiện Biên bao gồm các di tích nổi bật như: Đồi A1, đồi Ðộc Lập, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, cầu Mường Thanh, hầm chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (hay hầm Đờ Cát), Tượng đài chiến thắng, Tượng đài kéo pháo, Sở chỉ huy chiến dịch Ðiện Biên Phủ... Những di tích này đã để lại ấn tượng sâu sắc, thu hút nhiều du khách tham quan khi đến với Điện Biên. Nằm ở phía đông trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đồi A1 có vị trí quan trọng bậc nhất trong hệ thống 5 quả đồi bảo vệ trung tâm Mường Thanh. Tại đây, đêm 6/5/1954, quân ta đã đào một đường hầm, đặt khối thuốc nổ nặng gần 1.000kg và cho điểm hỏa. Đến sáng 7/5/1954, quân ta đã làm chủ hoàn toàn đồi A1, mở đường cho đợt tổng công kích cuối cùng vào Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm và giành thắng lợi hoàn toàn. Đồi A1 nay là điểm tham quan thu hút du khách trong nước và quốc tế với các hầm, hào, lô cốt, xe tăng được giữ gìn gần như nguyên vẹn. Tại đây, khách du lịch có thể trải nghiệm đẩy xe đạp thồ, nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm, nghe cựu chiến binh kể chuyện... Hầm chỉ huy của tướng Đờ Cát nằm ở trung tâm lòng chảo Điện Biên. Đây là căn hầm với các phòng làm việc, nghỉ ngơi của tướng Đờ Cát cùng Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đây cũng là nơi đánh dấu sự thất bại thảm hại của một đạo quân viễn chinh với hình ảnh viên tướng chỉ huy cùng toàn bộ sĩ quan dưới quyền giơ tay xin hàng và bộ đội ta phất cao lá cờ Quyết chiến quyết thắng kết thúc chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Một di tích khác không thể không nhắc tới cùng những bản hùng ca về người chiến sĩ Điện Biên đó là di tích Đường kéo pháo. Tuyến đường huyền thoại này đã đi vào lịch sử dân tộc và trở thành huyền thoại. Chỉ bằng sức người cùng những dụng cụ thô sơ, nhưng với lòng yêu nước, tinh thần anh dũng quả cảm, quân và dân ta đã mở những tuyến đường trên các sườn núi quanh co hiểm trở để kéo pháo vào trận địa. Cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ 20km là Sở chỉ huy chiến dịch nằm sâu trong khu rừng Mường Phăng. Đây là nơi đóng quân của Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ từ ngày 31/1 đến 15/5/1954. Trong những ngày ở đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng, mang tính lịch sử. Rừng Mường Phăng đã trở thành biểu tượng sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam và được người dân gọi là “Rừng Đại tướng”. Trong quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ, một công trình tuy ra đời trong thời bình nhưng có vai trò hết sức quan trọng, đó là Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Công trình này được hoàn thành năm 2014, đúng dịp kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Bảo tàng có hình dáng mô phỏng chiếc mũ của bộ đội ta năm xưa. Đây là nơi lưu giữ các hiện vật trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, gồm 2 khu trưng bày: Bên ngoài gồm 112 hiện vật là các loại vũ khí của Quân đội Nhân dân Việt Nam và quân đội Pháp sử dụng, bên trong trưng bày 274 hiện vật và 202 bức ảnh tư liệu. Bảo tàng đã góp phần phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử chiến trường Điện Biên Phủ và là điểm nhấn thu hút khách du lịch đến với Điện Biên.
Điện Biên 1805 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Cầu Hang Tôm cũ trước đây từng nổi tiếng là cầu dây văng đẹp nhất Tây Bắc, nối liền Mường Lay (Điện Biên) và Phong Thổ, Sìn Hồ của Lai Châu. Sở dĩ cầu có tên Hang Tôm là do khúc sông này xưa kia có quá nhiều tôm. Cách cầu chừng 50m có một “mó” nước rất mát, tôm từ sông Đà lũ lượt lên đó đẻ trứng, cả một khúc sông dày đặc tôm là tôm. Ngày ngày bà con thay nhau lên đó bắt về ăn. Nhưng người dân quanh khu vực này có tục lệ bất thành văn, mỗi nhà chỉ được bắt chừng một tiếng đồng hồ rồi nhà khác tiếp tục. Cuối những năm 1960, cầu Hang Tôm bắt đầu được tiến hành xây dựng. Ngày đó, chuyên gia và công nhân Trung Quốc cũng qua giúp ta làm cầu. Tuy nhiên, đến năm 1968, Trung Quốc xảy ra cách mạng văn hóa, chuyên gia và công nhân của họ rút hết về nước. Rất may khi đó hạng mục được coi là khó nhất là cáp treo đã được kéo xong, chỉ còn lại các công đoạn hoàn thiện. Nhưng cũng phải mãi đến năm 1973, cầu Hang Tôm mới được khánh thành. Ngày đó thật sự là ngày hội lớn của hàng vạn đồng bào Tây Bắc. Hàng ngàn người từ khắp nơi cơm đùm, cơm nắm, đi bộ vài ngày đường đổ về để tận mắt được nhìn, được một lần đi qua cây cầu mơ ước. Hang Tôm như một điểm nhấn cho vùng Tây Bắc. Cũng bởi vẻ đẹp hoành tráng và hoang sơ của cầu Hang Tôm nên những năm sau này, dân du lịch,Tây cũng như ta, đã đổ về đây, nhất là từ khi xuất hiện phong trào du lịch bụi. Tháng 11/2012 thủy điện Sơn La tích nước, toàn bộ Thị xã Mường Lay cũ trong đó bao gồm cả cây cầu Hang Tôm đã chìm sâu dưới lòng hồ Sông Đà, chấm dứt 40 năm hoạt động của cây cầu lịch sử. Ngay gần vị trí cầu Hang Tôm cũ, một cây cầu mới được dựng lên để thay thế nhiệm vụ, cao hơn cây cầu cũ 70m.
Điện Biên 1803 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Pha Đin tiếng Thái gọi là “Phạ Đin”, trong đó “Phạ” là trời, Đin là “đất”. Tên của con đèo này có nghĩa là nơi giao thoa giữa đất và trời - cái tên đủ để giúp người ta hình dung về sự xa xôi, hiểm trở ở đây. Đèo Pha Đin cách thành phố Điện Biên Phủ khoảng 100km. Đây được xem là ranh giới giữa 2 tỉnh Điện Biên và Sơn La. Pha Đin tọa lạc trên độ cao 1000m so với mực nước biển, với tổng chiều dài khoảng 32km. Điểm khởi đầu của đèo cách TP Sơn La 66km, còn điểm cuối cách TP Điện Biên Phủ khoảng 84km. Pha Đin cùng với Ô Quy Hồ, Khau Phạ, Mã Pí Lèng làm nên tứ đại đỉnh đèo huyền thoại của vùng cao Tây Bắc. Du khách phương xa muốn chinh phục đại đỉnh đèo này cần đến Hà Nội bằng xe khách, tàu hỏa hay tốt nhất là đặt vé máy bay đi Hà Nội. Từ sân bay Nội Bài, du khách có thể đặt xe đưa đón sân bay trên Traveloka để vào trung tâm thành phố. Từ Hà Nội, để đến Sơn La - điểm khởi đầu của đèo Pha Đin bằng xe khách giường nằm, limousine hay phượt bằng xe máy. Con đèo này nằm trên quốc lộ 6, nối liền hai tỉnh Sơn La và Điện Biên. Phượt thủ xuất phát từ Hà Nội sẽ di chuyển theo tuyến quốc lộ 6 qua cao nguyên Mộc Châu – Yên Châu – Mai Sơn – Thuận Châu là tới điểm khởi đầu của đèo Pha Đin. Còn nếu xuất phát từ TP Điện Biên Phủ, bạn sẽ đi theo quốc lộ 279 hướng đi huyện Tuần Giáo là tới. Mỗi mùa, đèo Pha Đin lại mang một vẻ đẹp khác nhau. Nhưng mùa đẹp nhất ở Pha Đin là mùa xuân và mùa hạ. Mùa xuân là mùa hoa rừng khoe sắc. Nào là hoa đào hồng ứng, hoa mận trắng tinh, hoa ban rợp trời. Tháng 3 là mùa hoa ban nở rộ - loài hoa đặc trưng của tỉnh Điện Biên cũng là mùa được các phượt thủ đánh giá là đẹp nhất. Mùa hè ở các tỉnh đồng bằng nóng cháy da nhưng khí hậu ở Pha Đin mát mẻ, dễ chịu. Mùa đông kèm theo mưa phùn thời tiết lạnh giá và đường đi nguy hiểm hơn không phải mùa lý tưởng để chinh phục Pha Đin. Ngoài ra, từ tháng 5 đến tháng 8 là mùa mưa ở Điện Biên. Trước khi bắt đầu hành trình bạn nên theo dõi sát diễn biến thời tiết. Bởi khu vực Pha Đin là núi đất đỏ chứ không phải núi đá vôi. Khi có mưa nhiều dễ xảy ra sạt lở cực nguy hiểm. Hầu hết du khách và phượt thủ đến đây để thỏa mãn máu phiêu lưu. Cung đường đèo hiểm trở và thiên nhiên hùng vĩ nơi đây như có sức thôi miên kỳ lạ. Từ xa nhìn lại, cung đường đèo chạy dài uốn lượn như sợi dây thừng lơ lửng giữa núi đồi. Địa thế nơi đây vô cùng hiểm trở với một bên là vách núi, một bên là vực sâu. Điểm cao nhất của đèo Pha Đin cao 1.648m so với mực nước biển. Độ dốc của đèo từ 10% đến 19%. Cung đường đèo ngoằn ngoèo với 125 khúc cua tay áo, cua chữ A, chữ Z nguy hiểm với bán kính đường cong dưới 15m. Đi từ điểm khởi đầu lên đến đỉnh đèo, từng bức tranh thiên nhiên từ từ mở ra, vừa hùng vĩ, ngoạn mục lại vừa thơ mộng. Dưới chân đèo lác đác bản làng. Lưng chừng đèo mây mờ giăng phủ. Từ dốc đèo nhìn xuống là thung lũng Mường Quài trải rộng mênh mông. Đến gần phía đỉnh đèo chỉ có bầu trời thăm thẳm và rừng núi hùng vĩ, bao la. Khi chinh phục Pha Đin, bạn đừng quên dừng chân ngắm cảnh tại thung lũng Ẳng Nưa hay check in tại Pha Đin Pass - một khu du lịch 50ha do hợp tác xã Pha Đin xây dựng. Sức sống hiện diện khắp cung đèo Pha Đin. Trên cung đường chinh phục, du khách sẽ bắt gặp hình ảnh những phiên chợ vùng cao khi đi qua địa phận xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La hay xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Người dân họp chợ để mua bán nông sản, dược liệu, sản vật núi rừng. Du khách cũng có thể dừng chân để mua một ít mang về làm quà. Điều khiến đèo Pha Đin trở nên đặc biệt hơn so với 3 đại đỉnh đèo Tây Bắc còn lại chính là việc con đèo này gắn liền với chiến dịch Điện Biên Phủ nổi tiếng năm châu, chấn động địa cầu. Trong kháng chiến chống Pháp, Pha Đin là tuyến đường bộ tiếp vận và vận chuyển pháo lên Điện Biên Phủ và đã trở thành biểu tượng của tinh thần quả cảm của 8.000 thanh niên xung phong. Để chặn đứng tuyến tiếp vận này, quân đội Pháp đã cho máy bay oanh tạc ròng rã 48 ngày đêm đường số 6. Trong đó, đèo Pha Đin và một trong 2 nơi hứng chịu nhiều mưa bom bão đạn nhất. Giờ đây, đèo Pha Đin đã được công nhận Di tích Quốc gia, là minh chứng cho lịch sử của dân tộc.
Điện Biên 1867 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hồ Pá Khoang thuộc địa phận xã Pá Khoang, TP. Ðiện Biên Phủ; cách quốc lộ 279 khoảng 8km và cách trung tâm TP. Ðiện Biên Phủ gần 20km về hướng Ðông Bắc. Theo ngôn ngữ của người dân tộc Thái, Pá Khoang có nghĩa là “rừng trúc”. Ông Quàng Văn Việt, Chủ tịch UBND xã Pá Khoang cho biết: Trước kia quanh hồ trúc mọc nhiều vô kể, người Thái nơi đây có câu nói vui rằng “ngửa mặt lên thấy trời, cúi mặt xuống thấy trúc”. Người dân địa phương thường sử dụng cây trúc để làm cần câu cá và một số vật dụng sinh hoạt. Ngoài việc đảm bảo tưới tiêu cho 5.000ha cánh đồng Mường Thanh với 2 vụ lúa, hồ Pá Khoang còn điều hòa khí hậu, hạn chế những tác hại của mưa lũ, tích trữ nước cho hai công trình thủy điện Thác Bay và Nà Lơi. Với lợi thế đa dạng thảm thực vật, rừng quanh hồ phong phú các loại thú; nhiều loài thực vật, động vật nổi và dưới lòng hồ. Năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Ðiện Biên Phủ, tuyến đường vào hồ Pá Khoang đã được trải nhựa. Cũng vào thời điểm này đã khai trương 4 nhà nghỉ vừa sang trọng lẫn dân dã với gần 100 phòng; các bản văn hóa của đồng bào dân tộc Thái, Khơ Mú cũng được triển khai với tổng diện tích trên 1.000ha. Ðể đến hồ Pá Khoang, du khách có thể di chuyển từ quốc lộ 279 theo quốc lộ 279b vào địa bàn xã Mường Phăng. Hoặc có thể theo tuyến đường bộ phía đông nam của TP. Ðiện Biên Phủ đi qua xã Tà Lèng. Hai tuyến đường này đều dẫn du khách qua những con đường quanh co, uốn lượn ven hồ, thỉnh thoảng lại hiện ra sau tán rừng mặt hồ Pá Khoang trong xanh... Tham quan hồ Pá Khoang, du khách có thể bơi thuyền trên những gợn sóng lăn tăn, len lỏi vào tận cùng ngóc ngách của các đảo, khám phá điều kỳ diệu của thế giới tự nhiên. Du khách cũng có thể đi bộ xuyên rừng thưởng ngoạn cảnh quan và ghé thăm các bản của người dân tộc Thái. Người dân nơi đây rất thân thiện và mến khách; du khách sẽ được mời tham dự những buổi giao lưu văn nghệ, thưởng thức nghệ thuật và các món ẩm thực, như: xôi, cơm lam, cá nướng, thịt hun khói... Vào mùa đông, sương mờ bảng lảng phủ khắp mặt hồ tạo nên một bức tranh thủy mặc huyền ảo. Mùa hè đến, mặt hồ trong xanh, hiền hòa soi bóng núi non, mây trời và rừng cây xanh thẫm. Năm 2015, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển Khu Du lịch Quốc gia Ðiện Biên Phủ - Pá Khoang, tỉnh Ðiện Biên đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Mục tiêu chung của quy hoạch là đến năm 2020 phát triển Khu Du lịch Ðiện Biên Phủ - Pá Khoang cơ bản đáp ứng các tiêu chí của Khu Du lịch Quốc gia; đến năm 2030 thực sự trở thành Khu Du lịch Quốc gia với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, hiên đại; là điểm nhấn, mốc son trên tuyến du lịch qua miền Tây Bắc, tạo động lực thúc đẩy phát triển du lịch và kinh tế - xã hội tỉnh Ðiện Biên.
Điện Biên 1855 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
A Pa Chải thuộc địa phận xã Sín Thầu, huyện Mường Nhé, cách thành phố Điện Biên Phủ 250 km, là điểm cực tây của Tổ quốc, nơi có cột mốc phân chia ranh giới giữa ba nước Việt Nam - Lào - Trung Quốc. Đây được gọi là mốc ngã ba biên giới nằm trên đỉnh núi Khoang La San, có độ cao 1.864m so với mực nước biển, hàng năm đón khá nhiều du khách, đặc biệt là các bạn trẻ ở mọi miền Tổ quốc đến tham quan, chinh phục. Trước đây, A Pa Chải được coi là mốc khó chinh phục vì đường lên cột mốc khó khăn, phải vượt qua ba quả đồi cỏ tranh cao lút đầu người, băng qua rừng, lội suối, leo núi cao mất bốn đến năm tiếng từ đồn biên phòng mới lên tới nơi. Giờ đã khác. Năm 2018, tỉnh Điện Biên hoàn thiện xong con đường bê tông men theo các vách núi và xây bậc tam cấp, du khách chinh phục cột mốc dễ dàng hơn dù rằng vẫn phải đi bộ vài cây số đường bê tông nhỏ, dốc và leo 500 bậc thang để lên tới cột mốc. Cột mốc ngã ba biên giới đặt trên đỉnh núi có hình tam giác, có ba mặt quay về ba hướng, mỗi mặt có khắc tên nước bằng quốc ngữ riêng và quốc huy ba quốc gia Việt Nam, Lào và Trung Quốc. Từ điểm cao của cực Tây Tổ quốc, nhìn ra xa là một không gian bao la, núi rừng hùng vĩ, trùng điệp. Cột mốc ba cạnh phân chia ranh giới ba nước Việt Nam – Lào – Trung Quốc lung linh dưới nắng. Niềm xúc động và tự hào dân tộc trào dâng.
Điện Biên 1834 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Động Pa Thơm thuộc xã Pa Thơm, nằm ở phía Tây huyện Điện Biên, giáp với biên giới Việt – Lào. Nhân dân địa phương gọi động là “Thẩm Nang Lai” (hang nhiều nàng tiên Hoa). Động được khám phá cách đây khá lâu cùng với những huyền thoại, truyền thuyết đẹp về tình yêu đôi lứa. Danh thắng hang động Pa Thơm được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp bằng công nhận danh thắng cấp quốc gia năm 2009. Ở độ cao trên 1.500m so với mực nước biển, động Pa Thơm được bao bọc giữa khu rừng nguyên sinh rậm rạp, với thảm thực vật và sự đa dạng sinh học phong phú. Để đến được cửa động, du khách phải đi bộ một quãng đường dốc dài hơn 200m mấp mô đá với nhiều loại dây leo. Động Pa Thơm Điện Biên nằm ở lưng chừng núi, cửa hang hình vòm, cao 12m, rộng 17m, mái đá nhô ra 7m. Từ cửa hang hiện ra những hình thù sinh động, những nhũ đá óng ánh, nhiều nhũ đá có màu sắc hư ảo rực rỡ dưới ánh nến. Các vòm hang đều cao vút, mỗi vòm đều uy nghi, lộng lẫy như một cung điện, thạch nhũ vươn cao, đủ loại măng đá mềm mại từ trần hang rủ xuống những mái hiên óng ánh. Cạnh vách núi, những khối đá trông như những thác nước chảy lớn, óng ánh ánh bạc. Đi tiếp vào trong hang, du khách sẽ bắt gặp con trăn khổng lồ thân lớn ngang chiếc nong cỡ đại (dài khoảng 20m), da bóng loáng như vừa mới trườn ra từ đáy hang sâu thẳm. Vào sâu hơn nữa, du khách sẽ có dịp được ngắm rất nhiều các hình khắc thạch nhũ muôn hình muôn vẻ: tả gợi về đất trời, cỏ cây, muông thú, thiên thần và ác quỷ…, còn những hình khắc mang tính trìu tượng nhiều ẩn dụ thì triền miên không dứt; tất cả như là một kho mật mã chất chồng, khiến du khách phải dừng chân mải mê nhìn ngắm, tưởng tượng và suy ngẫm lẽ huyền vi trời đất. Ngoài ra, nếu bạn muốn theo dõi câu chuyện cổ tích của tình yêu trần gian, bạn hãy đến thưởng ngoạn động tiên cảnh tráng lệ nằm trên con đường dẫn xuống đáy động: Căn phòng mờ ảo bỗng rực lên một thứ ánh sáng vàng bạc khi ngọn đuốc được thắp lên. Chiếc giường đá trải tấm nệm êm ái đan bằng sợi đá bạc như sợi chỉ bạc, hiện ra sau tấm bình phong mỏng manh có thể khẽ đung đưa trước gió. Động nàng tiên như một nỗi nhớ khôn nguôi về những ước nguyện bất tận, những hạnh phúc trần thế. mong manh. Khi đến cửa hang, bạn sẽ tận mắt nhìn thấy vòm hang động cao hơn 10 m, rộng gần 20 m, với mái đá nhô ra hơn 5 m, du khách bắt gặp ngay một khối thạch nhũ khổng lồ hình đầu voi. Ở độ sâu khoảng 20 m, có 3 khối thạch nhũ chắn ngang đường, vỡ thành ba đoạn tạo thành hai lối vào hang. Muốn đi hết toàn bộ hang, du khách phải mang theo nến và đèn pin thắp sáng và đi bộ gần 350 m, qua 9 vòm hang với kích thước lớn nhỏ khác nhau. Có những nhũ đá tự nhiên rất đẹp, lung linh với những hình thù sặc sỡ, kỳ thú; Du khách thậm chí có thể nghe thấy tiếng nước rơi từ vách hang và nhũ đá… Động Pa Thơm không chỉ dừng lại một điểm du lịch sinh thái khá hấp dẫn trong hệ thống hang động trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Mà nó còn chứa đựng nhiều ý nghĩa lịch sử tốt đẹp cho dân tộc. Khi đến đây, bạn sẽ được nghe kể về huyền thoại tình yêu đôi lứa lúc khai thiên lập địa từ đồng bào dân tộc nơi đây. Bên cạnh đó, Động Pa Thơm là di tích chứa đựng nhiều giá trị quý giá có thể phục vụ địa chất, khoáng sản, khảo cổ học, thực vật học … Các nhà khoa học nghiên cứu quá trình kiến tạo, chu kỳ vận động, hình thành đất, đá, đặc điểm địa hình, địa mạo và môi trường, sinh vật đất. Ngoài ra, hang động là một trong những tài nguyên du lịch tự nhiên hấp dẫn và kỳ thú đối với những du khách yêu thích trải nghiệm và khám phá. Động Pa Thơm Điện Biên – hang động vừa mang giá trị thắng cảnh vừa gắn liền với những huyền thoại, truyền thuyết đẹp về tình yêu đôi lứa, làm cho cảnh quan thêm chất thi ca và trở thành địa danh du lịch hấp dẫn. Đây xứng đáng là địa điểm du lịch lý tưởng để du khách ghé thăm khi có kế hoạch có chuyến du lịch tại Điện Biên.
Điện Biên 1201 lượt xem
Từ tháng 09 đến tháng 12.
Cách thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên gần 100 km, Đèo Pha Đin là ranh giới giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên. Tên gọi đèo Pha Đin xuất phát từ tiếng Thái “Phạ Đin” trong đó “Phạ” nghĩa là “Trời”, “Đin” là “Đất”, hàm nghĩa đây là nơi tiếp giáp giữa trời và đất. Đèo có độ dài 32km nằm trên quốc lộ 6, một phần thuộc xã Phỏng Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và một phần thuộc xã Tỏa Tình, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Điểm đầu của đèo cách thị xã Sơn La về phía Tây 66km, còn điểm cuối của đèo cách thành phố Điện Biên khoảng 84km. Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ. Đèo Lũng Lô anh hò chị hát. Dù bom đạn xương tan thịt nát. Không sờn lòng không tiếc tuổi xanh. Câu thơ lạc quan đã phác họa khí phách một thời hoa lửa của 65 năm về trước. Đèo Pha Đin có độ cao trên 1.000m so với mực nước biển, địa thế rất hiểm trở với một bên là vách đá dựng đứng, một bên là vực sâu thăm thẳm “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, đèo Pha Đin là một trong những tuyến đường huyết mạch quan trọng tiếp vận vũ khí, đạn dược và lương thực ra ngoài mặt trận và nó đã trở thành biểu tượng của tinh thần gan dạ với hơn 8000 thanh niên xung phong “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Nhằm chặn đứng tuyến tiếp viện của Việt Minh vào Điện Biên Phủ, suốt 48 ngày đêm ròng rã Tướng Đờ Castries đã cho máy bay oanh tặc đường số 6, trong đó đèo Pha Đin là một trong những điểm hứng chịu nhiều bom đạn nhất. Trên đỉnh đèo hiện vẫn còn tấm bia ghi lại dấu ấn lịch sử này. Trên tấm bia có ghi "Đây là nơi hứng chịu nhiều nhất những trận oanh tạc bằng máy bay của Thực dân Pháp nhằm ngăn chặn đường tiếp vận vũ khí, đạn dược, lương thực, thực phẩm của ta phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ". Đến năm 2005, chính phủ quyết định đầu tư nâng cấp tuyến quốc lộ 6 lên Tây Bắc. Đèo Pha đin mới được xây dựng bám theo sườn núi phía trái quốc lộ 6 cũ, chiều dài 26km. Tuyến đèo mới được đưa vào sử dụng đã giúp xe cộ lưu thông an toàn hơn, tuyến đèo cũ giờ đây dành cho người dân bản địa hoặc những du khách ưa mạo hiểm tìm đến chinh phục và khám phá. Nguồn: Ban Quản Lý Di Tích Tỉnh Điện Biên
Điện Biên 2230 lượt xem
Cầu Mường Thanh còn được quân đội Pháp gọi là cầu “Prenley”, là cây cầu bắc qua sông Nậm Rốm, do người Pháp xây dựng. Cầu là một công trình quân sự nằm trong phân khu trung tâm của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vào ngày 20/11/1953, Thực dân Pháp đã chọn Điện Biên Phủ để xây dựng Tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương lúc bấy giờ với 49 cứ điểm chia thành 3 phân khu: Phân khu Bắc, Phân khu Nam hay còn gọi là phân khu Hồng Cúm và Phân khu Trung tâm là phân khu quan trọng nhất. Do địa hình Điện Biên Phủ là một lòng chảo rộng, xung quanh là núi cao bao bọc, ở trận địa trung tâm lại có dòng sông Nậm Rốm chảy qua chia cắt phân khu trung tâm thành hai bên tả ngạn và hữu ngạn, nên sự liên lạc từ sở chỉ huy trung tâm với các cụm cứ điểm trên dãy đồi phía Đông và Đông Bắc gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết những khó khăn đó, quân Pháp đã cho xây dựng cầu Mường Thanh bắc qua sông Nậm Rốm. Cầu sắt Mường Thanh là chiếc cầu giã chiến được làm sẵn và chuyển từ Pháp sang lắp ghép tại Điện Biên. Toàn bộ cây cầu dài 40 m, rộng 5 m. Hai bên thành cầu là những thanh sắt chống đỡ đơn giản, không có trục giữa, sàn cầu lát bằng gỗ, dưới là những thanh dầm bằng sắt được liên kết với nhau rất chắc chắn đảm bảo tải trọng từ 8-15 tấn. Để bảo vệ cây cầu huyết mạch này, quân Pháp bố trí các cứ điểm 509, 508 và 507 bên đầu cầu phía Đông, còn đầu cầu phía Tây chúng bố trí một ổ đại liên 4 nòng án ngữ đề phòng đối phương tấn công vượt qua cầu tấn công sở chỉ huy trung tâm. Với cách bố trí lực lượng như vậy, Tướng Đờ Cát hy vọng giữ vững cây cầu, giữ vững cửa ngõ tiếp viện cho các cụm cao điểm phía Đông và Đông Bắc tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Khi chiến sự chưa xảy ra, cầu Mường Thanh là đường vận chuyển nguyên vật liệu, đạn dược, dây thép gai phục vụ cho việc xây dựng các cứ điểm phòng ngự ở phía Đông và phân khu phía Bắc. Trong đợt tổng công kích tấn công tiêu diệt toàn bộ các cao điểm phía Đông vào 4 giờ sáng ngày 7/5/1954 quân ta đã tiêu diệt toàn bộ cứ điểm A1, đến 14 giờ trung đoàn 209 đại đoàn 312 mở cuộc tấn công cứ điểm 597 ở đầu cầu Mường Thanh. Địch ở cứ điểm 507 kéo cờ trắng ra hàng, thừa thắng xông lên, Đại đoàn 312 tấn công tiêu diệt tiếp 2 cứ điểm 508 và 509 ở tả ngạn sông Nậm Rốm ở hai cứ điểm này địch chống cự yếu ớt và nhanh chóng bị tiêu diệt. Từ hướng Đông Trung đoàn 209 tiến thẳng vào khu trung tâm Mường Thanh cùng trung đoàn 98 và trung đoàn 174 áp sát vào khu trung tâm. Ở phía Tây trung đoàn 36 tiến vào các cứ điểm cuối cùng che chắn cho sở chỉ huy của địch. Trung đoàn 88 mở đường qua sân bay tiến thẳng vào sào huyệt cuối cùng của gono. Quân ta đánh tới đâu cờ trắng của địch xuất hiện tới đó, nhiều toán địch từ các cứ điểm, các chiến hào lũ lượt kéo ra nộp vũ khí đầu hàng. Đúng 17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954 lá cờ Quyết chiến- Quyết thắng của quân ta đã phấp phới tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát, kết thúc thắng lợi chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Đây là chiến thắng lớn nhất trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, cũng là chiến thắng lừng lẫy nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Ban đầu, cầu Mường Thanh do người Pháp xây dựng sau cuộc nhảy dù chiếm đóng Điện Biên Phủ. Cuối cùng cây cầu lại trở thành phương tiện đưa đường cho bộ đội ta tiến công, cắm lá cờ Quyết chiến quyết thắng lên nóc hầm của viên bại tướng Đờ Cát. Nguồn: Tổng hợp sở văn hoá thể thao du lịch tỉnh Điện Biên
Điện Biên 2041 lượt xem
Đồi D thuộc cụm Dominique, Thực dân Pháp đã xây dựng và biến cứ điểm này thành vị trí tiền tiêu của dãy đồi phía Đông. Do vị trí của đồi D là che chắn, bảo vệ Sở chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và Sân bay Mường Thanh nên Thực dân Pháp lợi dụng địa thế tự nhiên có lợi cho chúng về mặt quân sự để xây dựng thành vị trí phòng thủ vô cùng vững chắc, lợi hại. Tại đây, quân Pháp bố trí Tiểu đoàn 3 Trung đoàn Angiêri rất thiện chiến chiếm giữ. Về phía Quân đội nhân dân Việt Nam việc đánh chiếm dãy cao điểm phía Đông trong đó có cao điểm D1 là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong đợt tấn công thứ hai của chiến dịch Điện Biên Phủ. Đơn vị đảm nhiệm tiêu diệt cứ điểm D1 là Tiểu đoàn 166, 154 thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312. Đúng 17 giờ ngày 30/3/1954 các cỡ pháo của quân đội Việt Nam đồng loạt dội xuống đồi D1 và các cao điểm phía Đông khu Trung tâm Mường Thanh. Trong vòng 30 phút trung đoàn 209 đã chiếm được đồi D1, sáng hôm sau quân Pháp phản kích kết hợp với không quân hòng đánh chiếm lại cứ điểm, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt sau 2 ngày quân đội Việt Nam làm chủ hoàn toàn cứ điểm đồi D1. Sau khi chiếm được cụm đồi D, các chiến sĩ Việt Nam đã biến nơi đây thành trận địa đặt hỏa lực của trung đoàn 209, tiếp tục chi viện cho các đơn vị khác đánh chiếm các cứ điểm còn lại của quân Pháp. Có thể nói trận chiến đấu diễn ra trên dãy đồi phía đông trong đó có D1 là một trong những trận đánh quan trọng góp phần vào thắng lợi trong đợt tấn công thứ hai của chiến dịch Điện Biên Phủ. Trên mảnh đất Điện Biên lịch sử hôm nay đã có một số công trình Tượng đài, bức phù điêu được xây dựng nhằm tái hiện một cách đầy đủ, chân thực và sống động về trận đánh vĩ đại của quân và dân ta cách đây hơn 6 thập kỷ, trong đó Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ là Tượng đài bằng đồng lớn nhất và duy nhất nằm trong dự án các công trình chào mừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Di tích đồi D1 vinh dự được chọn làm địa điểm đặt Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ, bởi di tích nằm ở vị trí trung tâm của thành phố, có địa thế đẹp, từ di tích có thể quan sát toàn bộ lòng chảo Điện Biên Phủ. Đây là cụm tượng bằng đồng cao, to và nặng nhất Việt Nam lúc bấy giờ. Tượng được xây dựng với chiều cao 12,6m, dựng trên bệ cao 3,6m và được đúc bằng 217 tấn đồng. Tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ sừng sững giữa đất trời Điện Biên lịch sử và cùng với các di tích khác như: Đồi A1, cầu Mường Thanh, Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo, Mường Phăng.... đã trở thành địa danh trường tồn cùng đất nước, là minh chứng về lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam trong chiều dài lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước; tạo nên bản sắc của dân tộc, lưu truyền di sản cho các thế hệ sau; tăng cường mối đoàn kết, gắn bó giữa các thế hệ người Việt Nam, giữa các dân tộc trên địa bàn; Là một trong những biểu tượng tiêu biểu cho khát vọng hòa bình, sự thân thiện, mến khách, luôn mở cửa chào đón bạn bè, du khách quốc tế, tinh thần hợp tác cùng phát triển hướng tới tương lai. Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên
Điện Biên 1996 lượt xem
Hang Thẩm Púa nằm dưới chân núi đá vôi Pú Hồng Cáy thuộc địa phận Bản Pó, xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Bảo tàng Điện Biên kết hợp với phòng văn hoá thông tin thể thao huyện Tuần Giáo kiểm tra, khảo sát hang Thẩm Púa và đã thu được hơn 100 di vật gồm công cụ lao động bằng đá cuội; công cụ chặt thô hình hạnh nhân được ghè đẽo thô một đầu; công cụ lao động bằng những vỏ ốc suối lẫn vết tích than tro.. Những di vật khảo cổ phát hiện được ở hang Thẩm Púa có nhiều điểm rất gần gũi với những di vật khai quật được ở hang Thẩm Khương cùng dãy núi đá với hang Thẩm Púa. Tất cả những hiện vật đó đều mang một ý nghĩa lịch sử rất to lớn chứng tỏ rằng đây là nơi cư trú của người Việt cổ từ thủa xa xưa và vùng đất này luôn gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển cũng như lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy hang Thẩm Púa thực sự là di tích lịch sử văn hoá có giá trị vô cùng to lớn của Điện Biên. Trong cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp xâm lược, hang Thẩm Púa được chọn làm địa điểm đặt Sở chỉ huy đầu tiên của Chiến dịch Trần Đình (bí danh của Chiến dịch Điện Biên Phủ) do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tổng tư lệnh (từ 17/12/1953 đến 17/1/1954). Tại đây, từ những ngày đầu tháng 1/1954 mệnh lệnh chiến đấu được phổ biến trên sa bàn lớn bằng cát. Địa điểm hang Thẩm Púa được chọn làm Sở chỉ huy có địa thế an toàn, bên cạnh hang là một bãi đất bằng phẳng, rộng hơn 10ha thuận lợi cho việc chỉ đạo chiến dịch ở miền núi. Gần tới ngày nổ súng tiến công Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Sở chỉ huy từ hang Thẩm Púa được chuyển về hang Huổi He ở km 62 gần bản Nà Tấu. Hang Thẩm Púa, địa điểm đặt Sở chỉ huy đầu tiên ở Chiềng Sinh, Tuần Giáo và hang Huổi He ở Nà Tấu, huyện Điện Biên, nơi đã từng được chứng kiến thời khắc quan trọng về quyết định thay đổi phương châm “đánh nhanh thắng nhanh” thành phương châm “đánh chắc tiến chắc” của Bộ chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ mà người đứng đầu là Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã trở thành một trong những di tích nổi bật của cụm Di tích chiến trường Điện Biên Phủ. Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Điện Biên 1968 lượt xem
Di tích đường kéo pháo thuộc xã Nà Nhạn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, nằm dọc theo quốc lộ 279 bên hữu ngạn sông Nậm Rốm theo hướng từ Tuần Giáo đi Điện Biên. Nơi đây đã ghi dấu sự thay đổi phương châm tác chiến của Bộ chỉ huy mặt trận từ “đánh nhanh, thắng nhanh” sang phương châm “đánh chắc tiến chắc”. Và đây cũng là địa danh lịch sử in dấu sự hy sinh, khó khăn gian khổ cũng như đoàn kết hiệp đồng trong quá trình chuẩn bị chiến dịch, tinh thần quyết chiến quyết thắng vượt mọi thử thách, gian khổ để giành chiến thắng. Ngày 14/1/1954 tại Sở chỉ huy chiến dịch ở hang Thẩm Púa Km 15 đường Tuần Giáo - Điện Biên, Đảng uỷ và Bộ Chỉ huy chiến dịch đã họp bàn kế hoạch tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị trong cuộc họp là tập trung lực lượng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ theo nguyên tắc “đánh chắc thắng chắc”. Bộ chỉ huy kéo pháo được thành lập do đồng chí Lê Trọng Tấn làm chỉ huy và cho kéo thử mỗi loại một khẩu để rút kinh nghiệm và quyết định dùng xe vận tải kéo pháo vào cây số 9 ở gần bản Nà Nhạn dừng lại cắt pháo ra khỏi xe dùng sức người kéo mấy chục khẩu pháo 3 tấn vào những trận địa trên quãng đường dài 15km. Đường kéo pháo rộng 3m, chạy từ cửa rừng Nà Nhạn qua đỉnh Pu Pha Sông cao 1150m tương đương với độ nghiêng 40 - 60 độ xuống Bản Tâu, đường Điện Biên Phủ - Lai Châu tới bản Nghìu. Để đảm bảo bí mật, con đường kéo pháo phải được nguỵ trang toàn bộ, không cho máy bay trinh sát phát hiện. Thời gian làm đường dự kiến trong một ngày một đêm, các chiến sỹ Đại đoàn 308, một đại đội sơn pháo, một tiểu đoàn công binh hơn 5000 người đã hoàn thành xuất sắc con đường kéo pháo trong thời gian 20 tiếng. Việc tiếp theo là đưa lựu pháo và cao xạ pháo vào vị trí trận địa để bắn. Nhiệm vụ được trao cho Đại đoàn 351 và Đại đoàn 312, dự kiến hoàn thành trong 3 đêm . Nhưng sau 7 ngày đêm gian khổ, pháo của ta vẫn chưa vào hết trận địa so với kế hoạch ban đầu vì vậy thời gian nổ súng dự định ngày 20/1/1954 phải lui lại 5 ngày tức ngày 25/1/1954. Lúc này Sở chỉ huy của ta đã chuyển từ hang Thẩm Púa đến hang Huổi He, bản Nà Tấu. Tại đây sau khi cân nhắc tình hình địch có nhiều thay đổi, để đảm bảo "đánh chắc thắng chắc" Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhanh chóng thay đổi phương án tác chiến từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc tiến chắc”, ra lệnh kéo pháo ra khỏi trận địa, lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị lại. Kéo pháo vào trận địa gian nan vất vả, kéo pháo ra còn gian nan gấp bội phần. Con đường kéo pháo của ta giờ đây đã bị lộ, đường trơn, máy bay địch ngày đêm lùng sục ném bom. Tại những đoạn đường trống, việc chuyển pháo phải tiến hành ban đêm. Đêm xuống, trên những con đường kéo pháo, các chiến sĩ lưng ướt đẫm mồ hôi, đôi mắt thâm quầng vì thiếu ngủ, những đôi tay cuồn cuộn bám chắc dây tời, chân như đóng xuống đất nghiến răng ghìm pháo. Cũng trong hoàn cảnh này bài hát “Hò kéo pháo” của nhạc sĩ Hoàng Vân ra đời, ngay lập tức bài hát được phổ biến rộng rãi trong các đơn vị văn công mặt trận, ra tuyến đường kéo pháo hát phục vụ các chiến sĩ. Cho tới nay hài hát “Hò kéo pháo” đã trở thành bản hùng ca bất diệt về một trong những thời kỳ lịch sử oai hùng của dân tộc ta. Sau 11 ngày đêm gian khổ, toàn bộ pháo của ta đã được tập kết ra khu vực an toàn. Năm 2004 nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Đảng và Nhà nước ta đã cấp kinh phí xây dựng, trùng tu, tôn tạo con đường kéo pháo bằng tay. Nguồn: Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Điện Biên 1859 lượt xem
Đồi A1 nằm ở phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên, là cứ điểm quan trọng bậc nhất trong tập đoàn cứ điểm của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ. Đồi A1 là nơi đã diễn ra trận chiến lịch sử kéo dài 39 ngày đêm giữa quân ta và địch, để góp phần mang lại chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. A1 là ký hiệu mà quân đội Việt Nam đặt cho quả đồi, còn quân Pháp thì gọi là Eliane 2. Do có vị trí đặc biệt quan trọng nên quân Pháp đã xây dựng A1 trở thành ổ đề kháng mạnh nhất Điện Biên Phủ. Với hệ thống hầm ngầm bí mật vô cùng kiên cố, bố trí hỏa lực mạnh và các ổ súng máy, lỗ châu mai sao cho một lính phòng ngự có thể cùng lúc chống lại nhiều lính tấn công. Đồng thời Pháp liên tục tăng viện những lực lượng mạnh nhất và hỗ trợ tối đa hỏa lực để bảo vệ cứ điểm này đến cùng. Do vậy trong đợt tiến công lần 1, Trung đoàn 174 Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phát động 4 đợt tiến công liên tục mà cũng chỉ chiếm được một nửa đồi. Phải tới rạng sáng ngày 7/5/1954, nhờ khối bộc phá 1 tấn được đào bí mật để phá sập hệ thống hầm ngầm, Quân đội Nhân dân Việt Nam mới hoàn tất được việc chiếm đồi A1. Đây là trận chiến đấu gay go quyết liệt nhất trong toàn bộ chiến dịch Điện Biên Phủ, với số bộ đội thương vong cũng là cao nhất. Hiện nay, trên đỉnh Tây Bắc của đồi A1 có đài kỷ niệm các chiến sĩ, liệt sĩ đã hy sinh được xây theo kiểu “Tam sơn”, ở giữa cao, hai bên thấp và đều có hình mái đầu đạo. Phía trước là lư hương, ở giữa là tấm bia, phù hiệu Quốc kỳ, sao vàng nền tròn đỏ, xung quanh là vòng tương hoa. Bên cạnh đài kỷ niệm là xác một trong hai chiếc xe tăng nặng 18 tấn mà tên Quan Ba Hécvuê đưa từ trung tâm Mường Thanh lên để phản kích quân đội Việt Nam. Một di tích quan trọng nữa là cái hố hình phễu to bằng cái “ao đình” cạn. Đó là dấu tích trận nổ khối bộc phá nghìn cân của quân ta mà chiến sĩ ta thường gọi “đào hầm để trị hầm”, trị cả hầm, cả lô cốt cố thủ của giặc. Nằm cách điểm di tích lịch sử đồi A1 không xa về phía nam là Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Đồi A1 được xây dựng năm 1958. Nơi đây là nơi an nghỉ của 644 cán bộ, chiến sĩ quân đội đã hy sinh anh dũng bảo vệ tổ quốc trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1994, nghĩa trang được tu bổ, quy hoạch và xây dựng thành một công trình lịch sử văn hóa, một nghĩa trang công viên với nhiều hạng mục. Bên trong khuôn viên là nhà quản trang được thiết kế theo kiểu ngôi nhà sàn đặc trưng của người Thái Điện Biên, lễ đài bên ngoài được thiết kế theo lối Khuê Văn Các hai bên là hai kiểu tường thành cổ với hai hào nước phía trước rộng 6m, bên ngoài tường thành là bức phù điêu đắp nổi tái hiện lại sự chiến đấu anh dũng của quân và dân ta và chín năm kháng chiến trường kỳ giành lại độc lập dân tộc. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Điện Biên
Điện Biên 1845 lượt xem