Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Chùa Địa Tạng Phi Lai Tự, một điểm đến yên bình tại Hà Nam, nổi bật với kiến trúc độc đáo và không gian thiên nhiên thanh tịnh. Hãy nghe Vũ Mai Ngọc Ánh (Hà Nội) một travel blogger nổi tiếng bật mí .
Chùa Địa Tạng Phi Lai Tự nằm ẩn mình giữa rừng thông bạt ngàn tại huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Với không gian tĩnh lặng và thanh bình, chùa là điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tìm lại sự cân bằng và an yên trong cuộc sống hối hả. Chùa không chỉ nổi tiếng với kiến trúc độc đáo mà còn với sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và văn hóa Phật giáo.
Lịch Sử Hình Thành
Ảnh: Sưu tầm
Chùa Địa Tạng Phi Lai Tự được xây dựng từ hơn 1.000 năm trước và trải qua nhiều lần trùng tu, nhưng vẫn giữ được nét cổ kính và linh thiêng. Trong thời kỳ hiện đại, chùa đã được khôi phục và cải tạo để phù hợp với nhu cầu tham quan của khách du lịch, nhưng vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử và văn hóa truyền thống.
Vị Trí Địa Lý
Chùa nằm trên một ngọn đồi nhỏ, được bao bọc bởi những cánh rừng thông xanh mát. Vị trí này không chỉ tạo nên một không gian yên bình, tách biệt với thế giới bên ngoài, mà còn mang đến cho du khách cảm giác gần gũi với thiên nhiên. Cảnh quan xung quanh chùa còn được trang trí bởi những con đường sỏi trắng, các ao sen và những khu vườn thiền nhỏ, tạo nên một không gian thư thái.
Kiến Trúc Độc Đáo
Ảnh: Sưu tầm
Kiến trúc của chùa Địa Tạng Phi Lai Tự là sự kết hợp tinh tế giữa phong cách cổ điển và hiện đại. Những mái ngói cong vút, những cột gỗ lớn và các tượng Phật được chạm khắc tỉ mỉ là minh chứng cho tài năng của các nghệ nhân xưa. Các khu vực chính của chùa được thiết kế mở, kết nối trực tiếp với thiên nhiên, giúp du khách cảm nhận được sự thanh tịnh từ mọi góc nhìn.
Các Hoạt Động Tâm Linh
Khi đến chùa, mình có thể tham gia vào các hoạt động tâm linh như thiền, tụng kinh và lễ Phật. Những buổi thiền tĩnh lặng trong không gian thiêng liêng của chùa giúp tâm hồn mình trở nên thư thái, tĩnh lặng, xua tan những mệt mỏi và lo toan trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra, các buổi lễ Phật thường xuyên tổ chức cũng là dịp để mình thể hiện lòng thành kính và cầu nguyện cho bình an
Các Điểm Tham Quan Nổi Bật
Ảnh: Sưu tầm
Ngoài khu vực chánh điện, chùa còn có nhiều khu vực tham quan khác như ao sen, vườn thiền và các tượng Phật lớn. Mỗi điểm đến trong khuôn viên chùa đều mang một ý nghĩa tâm linh đặc biệt, giúp mình cảm nhận sâu sắc hơn về triết lý nhà Phật và giá trị của sự tĩnh tâm.
Ý Nghĩa Tâm Linh
Chùa Địa Tạng Phi Lai Tự không chỉ là nơi để tham quan, mà còn là nơi để mình học hỏi và thực hành những giá trị tâm linh. Tại đây, mình có cơ hội tìm hiểu về cuộc đời và giáo lý của Đức Phật Địa Tạng, một vị Bồ Tát nổi tiếng trong Phật giáo. Những bài học về lòng từ bi, nhẫn nhục và sự thanh tịnh của tâm hồn được truyền tải một cách sâu sắc và ý nghĩa.
Những Lưu Ý Khi Tham Quan
Khi đến thăm chùa, mình luôn giữ thái độ trang nghiêm và tôn kính. Việc ăn mặc lịch sự, không gây ồn ào và tuân thủ các quy định của chùa là điều cần thiết để duy trì không khí linh thiêng và thanh tịnh tại đây. Ngoài ra, mình cũng luôn lưu ý bảo vệ môi trường xung quanh, giữ gìn cảnh quan sạch đẹp cho những người đến sau.
Ảnh: Sưu tầm
Chùa Địa Tạng Phi Lai Tự là một điểm đến lý tưởng cho những ai muốn tìm kiếm sự yên bình và tĩnh lặng. Với vẻ đẹp tự nhiên hoang sơ kết hợp cùng kiến trúc tinh tế và giá trị tâm linh sâu sắc, nơi đây thực sự là một chốn dừng chân tuyệt vời để mình tìm lại sự an yên trong cuộc sống.
Đền Lảnh Giang - điểm đến tâm linh nổi tiếng ở Hà Nam còn được gọi với cái tên thân thuộc là Lảnh Giang linh từ. Cụ thể, ngôi đền này nằm ở thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Địa điểm du lịch này nằm ngay sát chân đê nối liền với Hà Tây cũ, bên bờ hữu của sông Hồng. Đối diện với đền Lảnh Giang là tỉnh Hưng Yên. Do đó, du khách có thể dễ dàng đến đây bằng nhiều phương tiện khác nhau, từ đường bộ cho đến đường thủy. Cũng bởi vị trí này mà nhiều người vẫn hay nhầm lẫn rằng đền Lảnh Giang tọa lạc tại Hưng Yên. Hà Nam là một tỉnh không có sân bay, do đó, để có thể đến được đền Lảnh Giang, du khách có thể săn vé máy bay đi Hà Nội tại Traveloka. Các tính năng Thông báo giá vé, Đổi lịch trình bay và Hoàn tiền của Traveloka sẽ hỗ trợ bạn tối đa trong quá trình đặt vé. Hiện nay, các chuyến bay đến sân bay Nội Bài Hà Nội được khai thác một cách thường xuyên. Do đó, du khách có thể dễ dàng đặt được vé máy bay trong bất cứ khoảng thời gian nào. Sau khi đã hạ cánh an toàn tại sân bay Nội Bài, bạn cần lựa chọn các phương tiện phù hợp tiếp theo để di chuyển đến tỉnh Hà Nam. Đa phần, khách du lịch thường lựa chọn xe buýt 206 hoặc một số hãng xe khách tiêu biểu như Phúc Lộc Thọ, Việt Trung, Thời Đại, Mận Tịnh,... Sau khi đến thị trấn Đồng Văn, huyện Duy Tiên, du khách muốn tham quan đền Lảnh Giang cần di chuyển thêm 8km theo hướng quốc lộ 38 để đến thị trấn Hòa Mạc. Từ đây đi thêm tầm 3, 4 cây số nữa là bạn có thể đến được cầu Yên Lệnh. Tiếp đó, chỉ cần rẽ trái và chạy men theo con đường nằm ngay sát bờ đê sông Hồng là bạn có thể đến được đền Lảnh Giang, Hà Nam. Theo ghi chép từ các tài liệu, cho đến thời điểm hiện tại, người ta vẫn chưa thể xác định được thời gian mà đền Lảnh Giang được xây dựng. Theo bút tích còn sót lại trên nóc của tòa đệ nhị, rất có thể đền Lảnh Giang được trùng tu vào năm 1944. Trải qua những thăng trầm lịch sử, ngôi đền này vẫn còn giữ nguyên được quy mô bề thế vốn có. Nhiều truyền thuyết đã kể lại rằng, đền Lảnh Giang gắn liền với Tam vị danh thần - con của nàng Quý người trang Hoa Giám. Họ không chỉ có công trong việc giúp vua Hùng chống quân Thục Phán mà còn phù trợ vợ chồng Tiên Dung công chúa. Vì thế, đền Lảnh Giang đã được lập ra để ghi công, tưởng nhớ các vị thần giúp sức vua Hùng giữ nước. Mỗi năm, đền Lảnh Giang sẽ có 2 kỳ lễ hội lớn nhằm bày tỏ lòng tưởng nhớ với các vị thủy thần và cầu mong mưa thuận gió hòa quanh năm để người dân an cư lập nghiệp. Trong đó, lễ hội kỳ 1 sẽ diễn ra vào tháng 6 âm lịch hàng, kéo dài từ mùng 2 đến mùng 5. Lễ hội kỳ 2 sẽ tiếp tục diễn ra vào tháng 8 âm lịch, cụ thể là 20/8. Lễ hội tại đền Lảnh Giang không chỉ quy tụ nhiều nghi thức tế lễ, rước thánh vô cùng linh thiêng và trang trọng mà còn tập trung nhiều trò chơi thú vị, hấp dẫn. Đến Hà Nam vào dịp này, du khách không những có thể chiêm ngưỡng danh thắng và các công trình kiến trúc tâm linh độc đáo tại nơi đây mà còn có thể tìm hiểu thêm về phong tục tập quán cũng như nét văn hóa đặc sắc của vùng đất này. Trong năm 1996, đền Lảnh Giang đã chính thức được bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng vào di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Cùng từ đó, đền trở thành một trong những công trình cần được giữ gìn, bảo vệ và phát triển. Đền Lảnh Giang gồm có 3 tòa nhà với 14 gian cùng nhà khách, lầu thờ được bao quanh bởi những bức tường thành kiên cố. Trong đền có rất nhiều vật dụng giá trị cùng nhiều cổ vật quý và tượng thờ 3 vị thần thời Hùng Vương. Đứng trước đền Lảnh Giang, hẳn rằng du khách sẽ vô cùng ấn tượng với lối kiến trúc đồ sộ và uy nghiêm. Cổng Tam quan được thiết kế theo kiểu chồng diêm tám mái tạo cảm giác thông thoáng, phần đầu đao là hình rồng đẹp mắt đan xen với các họa tiết vô cùng hài hòa. Trước cổng Tam quan là hồ bán nguyệt trong xanh phẳng lặng được tô điểm bởi những đóa hoa súng rực rỡ sắc hương. Theo chân cây cầu nối từ cửa đền đến giữa hồ, du khách sẽ bắt gặp một tòa tháp ẩn hiện trong bóng cây si già, vừa uy nghiêm, cổ kính nhưng cũng vô cùng nên thơ.
Hà Nam 1862 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Trần Thương hiện nay là nơi tôn vinh anh hùng dân tộc Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn cùng các tướng lĩnh có công chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII. Với hơn một thế kỷ tồn tại, đền vẫn giữ nguyên vẻ đẹp từ thuở sơ khai và là biểu tượng lịch sử và niềm tự hào của người dân Hà Nam. Vùng đất Trần Thương được biết đến với câu nói “Cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương” và câu thơ khắc trên bức châm ở đền: “Đất Trần Thương mênh mông phúc lợi, hoa quả rộn ràng mọi mùa xuân.” Trước kia, Trần Thương là trung tâm của 6 con kênh nước. Từ đây, có thể đi ngược dòng sông Hồng về Thăng Long hoặc xuôi ra biển về hướng Đông, chỉ cách đây khoảng 3km là nơi đặt lăng mộ của gia đình nhà Trần. Đền Trần Thương là một trong 3 đền lớn thờ Hưng Đạo Đại Vương trên toàn quốc. Truyền thuyết kể rằng, trên hành trình chống quân Nguyên Mông, Trần Hưng Đạo nhận thấy địa thế tại đây rất hiểm trở, nên ông đã lập 6 kho chứa lương thực để phục vụ cho cuộc chiến. Nơi đây ngày nay đã trở thành địa điểm lưu giữ tinh thần lịch sử và niềm tự hào của người dân Hà Nam. Đền Trần Thương, một công trình kiến trúc uy nghi và cổ kính nằm trên đất thiêng theo kiểu “Tứ thủy quy đường”. Tổng thể cảnh quan đền bao gồm nghi môn ngoại, nghi môn nội, 5 tòa, 15 gian, chia thành 3 cung: đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và hai giải vũ, 5 giếng… Kiến trúc và cảnh quan tự nhiên của đền Trần Thương như hòa mình vào đạo trong không gian văn hóa linh thiêng. Giá trị của đền thể hiện qua trang trí tinh tế với các họa tiết độc đáo: lưỡng long chầu nguyệt, rồng bay, phượng múa, sóng nước mây trời… Tạo nên bức tranh sống động, cổ kính và chứa đựng triết lý dân gian. Bộ sưu tập đồ thờ, cổ thư của đền cũng rất đa dạng, đặc biệt là pho tượng Đức Thánh Trần với gương mặt nghiêm túc nhưng vẫn mang nụ cười dung dưỡng. Với giá trị lịch sử truyền thống, đền Trần Thương tỏa sáng với văn hóa độc đáo. Hàng năm, đền tổ chức 2 lễ hội lớn: lễ phát lương Đức Thánh Trần diễn ra vào đêm 14 rạng sáng ngày 15 tháng Giêng; lễ giỗ từ ngày 18 đến 20 tháng 8 âm lịch thu hút đông đảo người dân và du khách. Trong lễ hội, nhiều hoạt động văn hóa dân gian được tổ chức, từ lễ rước nước, thi bơi chải trên sông đến “Diễn xướng thanh đồng” - một lễ nghi truyền thống, tất cả đều nhấn mạnh đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Đền Trần Thương không chỉ là nơi tổ chức các lễ hội, mà còn là nơi gìn giữ ký ức về văn hóa, lịch sử và tín ngưỡng. Đây là biểu tượng của sự tôn kính đối với những nhân vật thánh thiện cứu quốc, là niềm tự hào của một quốc gia với lòng hiếu kính bất tận.
Hà Nam 1728 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Đền Trúc Hà Nam nằm trong khu du lịch Đền Trúc - Ngũ Ðộng Thi Sơn, thuộc thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, cách thành phố Phủ Lý hơn 7km theo quốc lộ 21A. Có khá nhiều sự tích về Đền Trúc Hà Nam nhưng theo các cụ già trông coi đền kể lại thì vào năm 1089, trên đường đi chinh phạt phương Nam qua thôn Quyển Sơn, đoàn thuyền chiến của Lý Thường Kiệt bị một cơn gió bất ngờ thổi gãy cột buồm, cuốn lá cờ lên đỉnh núi Cấm. Thấy lạ, ông bèn cùng tướng sĩ dừng lại, sửa soạn lễ tế trời đất, cầu cho quân đại thắng. Và lần ra quân ấy đúng thật thắng lớn, Lý Thường Kiệt đã cùng quân sĩ quay trở lại làm lễ tạ và cho phép mọi người mở hội ăn mừng chiến thắng. Lễ hội kéo dài hằng tháng, không khí tưng bừng, náo nhiệt, thậm chí trong khoảng thời gian đó ông còn dạy cho người dân nơi đây nghề nuôi tằm dệt vải. Sau này để tưởng nhớ công ơn của Lý Thường Kiệt, dân làng đã lập đền thờ ngay tại nơi ông mở hội, chính là Đền Trúc ngày nay nằm sâu bên trong khu rừng bạt ngàn trúc xanh. Đền Trúc ở Hà Nam được thiết kế theo kiểu chữ “Đinh” gồm cổng đền, tiền đường và hậu cung. Cổng đền có 4 cột trụ: 2 cột chính giữa cao trên 6m và 2 cột nhỏ ở hai bên. Tiền đường Đền Trúc chia làm 5 gian và hậu cung có 3 gian đều được xây dựng theo phong cách truyền thống của thế kỷ 17- 19 là lợp ngói nam, xây bằng gạch thất, bắt mạch để trần, hệ thống cửa được chạm trổ theo các đề tài tứ linh, tứ quý... có giá trị nghệ thuật cao. Không chỉ được ngắm cảnh đẹp và tham gia lễ hội, đến với Đền Trúc Hà Nam du khách còn có cơ hội tận mắt nhìn thấy những hiện vật bằng đá từ thời Lý mang đậm dấu ấn lịch sử của một thời hào hùng. Được biết, hiện nay ở Đền Trúc đang lưu giữ 2 cổ vật chưa được nghiên cứu từ thời Lý là đôi rồng và một bể cảnh bằng đá. Đôi rồng không lớn lắm, nằm đối xứng theo chiều dọc, đầu quay vào tòa tiền đường nhưng lại có hình dạng khác nhau. Theo những nhà khảo cổ từng đến đây cho biết, con rồng phía bên phải nhìn từ ngoài vào là rồng thời Lý có hình dáng mềm mại, uyển chuyển; còn con rồng phía bên trái là rồng thời Trần có dáng to khỏe, mập mạp hơn. Còn bể cảnh bằng đá được tạo từ đá nguyên khối, có hình chữ nhật, vuông thành sắc cạnh, đáy bể có diềm hình sóng nước bao quanh, thành bể có họa tiết tứ quý. Mặc dù chưa biết chính xác được niên đại của bể cảnh này song nhìn những chi tiết phủ rêu phong cũng biết bể có từ hàng trăm năm trước.
Hà Nam 1694 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nếu bạn không biết thì kẽm trống hà nam là một trong những thắng cảnh nên thơ, hùng vĩ. Địa danh này gồm cả sông, cả núi, đồng ruộng, cây cỏ bao xung quanh, thêm vào đó là con người tạo dựng thêm những cảnh quan để có một tổng thể khu danh thắng như hiện nay.
Hà Nam 1429 lượt xem
Tám cảnh thuộc vùng núi của xã Tượng Lĩnh (Kim Bảng) đã từng là nơi chúa Trịnh Sâm cho lập hành cung và được chúa ví với 8 cảnh đẹp nổi tiếng như ở Tiêu Tường (Vân Nam, Trung Quốc). Từ lâu, dãy Bát cảnh sơn (dãy núi có 8 cánh) được coi là một thắng cảnh của trấn Sơn Nam. Theo Lịch triều hiến chương loại chí (phần Dư địa chí) của Phan Huy Chú thì vào thế kỷ thứ XVI, Nghị tổ Trịnh Doanh qua đây chiêm ngưỡng đã ví Bát cảnh sơn với Tiêu Tương bên Trung Quốc và cho lập hành cung để đi về thưởng ngoạn. Xưa kia, ở Bát cảnh sơn có 8 ngôi chùa và một ngôi miếu thờ thổ đại thần linh được bài trí xây dựng theo thuyết bát quái ngũ hành. Thắng cảnh 1: Ông Chùa Tiên hay còn gọi là chùa Ông. Ông Chùa Tiên (Chùa Ông ) được xây dựng từ thời vua Trần Nhân Tông ở trên núi tướng khoảng 200m. Núi chính là bức tường đầu tiên trong hệ thống Bát Cảnh Sơn ở Hà Nam. Chùa có phong cách kiến trúc cực tinh tế với tám trận, bốn góc rồng bởi vậy đây chính là điểm đầu tiên cũng như quan trọng bậc nhất trong thắng cảnh Bát Cảnh Sơn nhé. Thắng cảnh 2: Ông Đền 2. Thắng cảnh này có một hồ nước bán nguyệt lớn xung quanh với những hàng cây xanh thắm. Hồ có diện tích lên tới 320 mẫu quanh năm nước xanh cùng với độ sâu trung bình chừng 5m. Theo tương truyền đây là hồ nước do đền thờ để lại sau một trận lũ lụt. Hiện nay trong hồ có vô số các loài cá mà có thể khai thác được. Đền Ông được xây dựng theo kết cấu tam giác với hàng trăm bức tượng phật uy nghi, tráng lệ tới đây bạn sẽ thấy tâm hồn thêm yên tĩnh, thanh tịnh. Thắng cảnh 4: Chùa Kiều. Chùa Kiều nằm ở độ cao 150m trên ngọn núi cùng tên. Chùa Kiều nằm ở phía Đông Nam với một diện tích lớn. Chùa hiện có 3 tấm bia khắc vào vách đá là một trong những điểm quan trọng của nơi này. Bên cạnh đó ngôi chùa còn gắn liền với những truyền thuyết về ánh trăng. Thắng cảnh 5: chùa Bà. Ngôi chùa trở nên linh thiêng từ khi làng tổ chức rước vong phật Pháp Vũ về thờ. Phật Pháp Vũ thuộc hệ Tứ Pháp chùa Dâu (Bắc Ninh) gồm: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Lịch sử còn ghi lại sự linh ứng mỗi khi các vua thời Lý đến chùa Dâu cầu khấn, từ đó chùa các nơi xin rước Tứ Pháp về thờ”.
Hà Nam 1812 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Bà Đanh nằm sát núi Ngọc và được dòng sông Đáy bao quanh ba mặt. Phía bên ngoài chùa giáp với đường đi bộ, cổng tam quan chùa thì gần bờ sông, vì thế tam quan được tôn cao năm bậc và hai đầu xây bít đốc. Tam quan chùa có ba gian, hai tầng, tầng trên có hai lớp mái, lợp bằng ngói nam, xung quanh sàn gỗ hàng lan can và những chấn song con tiện, tầng này sử dụng làm gác chuông, ba gian dưới có cửa gỗ lim. Phía ngoài cửa là hai cột đồng, trên nóc tam quan đắp một đôi rồng chầu. Hai bên cổng chính là cổng nhỏ có tám mái, cửa uốn lượn hình bán nguyệt. Ngày thường, khách ra vào bằng cửa nhỏ, chỉ khi chùa có lễ thì cửa chính mới mở. Chùa Bà Đanh thờ Phật, ngoài Phật còn có tượng Thái Thượng Lão Quân, tượng Nam Tào, Bắc Đẩu và thờ cúng tín ngưỡng Tứ Phủ (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Phong). Đặc biệt chùa thờ nữ thần Pháp Vũ, là nữ thần gió. Theo truyền thuyết, nữ thần Pháp Vũ linh thiêng trông coi việc điều mưa khiển gió, mang lại mưa thuận gió hòa cho mùa màng bội thu, giúp đời sống người dân sung túc nên chùa có tên Đức Bà làng Đanh, gọi tắt là chùa Bà Đanh. Ở không gian trung tâm chùa là pho tượng Bà Đanh đang ở thế toạ thiền trên chiếc ngai đen bóng với khuôn mặt phúc hậu, hiền từ, đầy nữ tính và gần gũi. Sự hài hoà giữa pho tượng và chiếc ngai tạo nên vẻ hấp dẫn của nghệ thuật điêu khắc vùng đồng bằng Bắc Bộ. Gần như toàn bộ nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật chạm khắc của ngôi chùa tập trung ở nhà bái đường – nơi hành lễ thường ngày. Nhà bái đường năm gian gỗ lim, đầu hồi bít đốc và cũng đắp nổi hai con rồng. Quan sát từ giữa sân gạch, du khách sẽ thấy được hệ thống tượng đắp nổi “tứ long chầu mặt nguyệt” trên nóc nhà mái đường. Cả bốn con rồng, từ kiểu dáng đến thân hình đều uốn lượn, mắt, râu, vuốt, vây đều rất sinh động, uyển chuyển, mà cũng rất dữ dội, trông như đang vờn nhau, bay lượn trong khoảng không bao la. Rồng ở đây mang màu sắc của thời kỳ nhà Nguyễn. Đầu hai dãy hành lang và liền với nhà bái đường là hai cột trụ cao vút, uy nghi. Trên mỗi cột đều đắp nổi hình tứ linh: long, ly, quy, phượng theo thế đối xứng, hài hoà, cân đối. Từng đường nét đều thể hiện sự tài hoa của các nghệ nhân xưa. Dù đẹp và cổ kính, nhưng chùa Bà Đanh lại được biết đến bởi sự vắng vẻ, hoang vu. Đã có rất nhiều giả thuyết lý giải cho điều này nhưng thuyết phục nhất là chùa rất linh thiêng, người đi đường hoặc người vào lễ bái nếu cười cợt, nói chuyện to, bất kính dù chỉ một câu cũng sẽ bị trừng phạt. Vì thế khách hành hương ngày càng ít ghé thăm ngôi chùa. Một phần nữa, chùa nằm cách xa khu dân cư, quanh đó ít người dân sinh sống. Ba mặt chùa là sông, rừng rậm, cây cối, vì thế rất ít người lai vãng đến chùa chỉ trừ những ngày lễ hội lớn của đạo Phật. Những lý do trên đã khiến chùa đã vắng càng vắng hơn. Ngày nay, chùa được đầu tư xây dựng lại khá khang trang, rộng rãi, khách đến chùa cũng nhiều hơn. Vì thế câu nói xưa giờ đã được cải biên thành: “Ngày xưa vắng ngắt vắng ngơ/ Bây giờ tấp nập như chùa Bà Đanh”. Chùa Bà Đanh hiện đang lưu giữ nhiều cổ vật, cổ thư quý hiếm, nhất là tượng Phật tổ, tượng Bồ Tát, đại tự, khánh đá, câu đối và nhang án…
Hà Nam 1896 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Từ đường Nguyễn Khuyến nằm ở làng Vị Hạ, xã Trung Lương (xưa là xã Yên Đổ), huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Khu Từ đường Nguyễn Khuyến được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1991. Nhà thơ Nguyễn Khuyến (1835 – 1909), tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15/2/1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội ông ở làng Vị Hạ (tục gọi làng Và), xã Yên Đổ, nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu khoa thi Hương, đến năm 1871 ông liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình. Vì đỗ đầu cả ba kỳ thi nên đương thời gọi ông là “Tam Nguyên Yên Đổ”. Năm 1873, ông được bổ chức Đốc học Thanh Hóa rồi thăng lên Án sát tỉnh Thanh Hóa. Năm 1883 ông được cử là Phó sứ đoàn đi sứ nhà Thanh. Làm quan từ năm 1871 đến năm 1884 thì ông cáo quan về nghỉ tại quê nhà khi 50 tuổi. Với hơn 800 tác phẩm viết bằng chữ Nôm, chữ Hán ở nhiều thể loại như: Thơ, văn, câu đối… Đặc biệt là chùm 3 bài thơ: Thu Điếu, Thu Ẩm, Thu Vịnh, thấm đẫm hồn Việt, đưa ông lên vị trí hàng đầu “Nhà thơ làng cảnh Việt Nam”. Đây là ngôi nhà cổ - nơi nhà thơ từng sinh sống thời khoa cử và những tháng năm tuổi già sau khi cáo lão, từ quan. Không chỉ là nơi thờ tự, từ đường còn lưu giữ nhiều kỷ vật gắn bó mật thiết với cuộc đời nhà thơ: 2 hòm sách, 2 ống quyển, 2 biển “Ân tứ vinh quy” vua ban cho ông nghè Nguyễn Khuyến, tấm ảnh ông chụp lúc sinh thời, câu đối của Tổng đốc Ninh - Thái Bùi Ước mừng vào mùa thu năm1872; bài thơ của tiến sỹ Dương Khuê tặng năm 1871, được khắc trên bức cuốn thư… Cổng vào Từ đường được xây bằng gạch nhỏ (đã được sơn lại) phía trên có 3 chữ lớn “Môn tử môn” (cửa ra vào của học trò). Hai bên cổng là đôi câu đối đắp nổi, chữ hán nhấn vào vữa. Bậc thềm được xây dật ba cấp cao 0,40m. Khu nhà tế đường có 7 gian. Bẩy gian nhà này, ba gian giữa để tiếp khách, mỗi đầu hồi hai gian được ngăn ra bằng gỗ để làm buồng. Mấy gian nhà này làm theo kiểu vì kèo giá chiêng, cột có đường kính 0,35m, điêu khắc mang phong cách thời Nguyễn đơn giản. Qua một sân gạch rộng 0,35m hai đầu hồi xây tường gạch là đến nhà thứ hai. Trong sân về phía giáp tường có một số bồn xây để trồng hoa và cây cảnh. Nhà thứ hai hiện nay là Từ đường Nguyễn Khuyến. Ngôi nhà gồm ba gian, bốn hàng cột, đường kính cột là 0,25m, kiểu vì chèo giá chiêng chồng rường. Hai đầu hồi và tường sau được xây tường gạch, còn đằng trước là dãy cửa bức bàn bằng gỗ, mỗi gian có bốn cánh cửa. Cửa này mỗi khi có việc có thể tháo ra toàn bộ làm cho lòng nhà thoáng đãng, sáng sủa, không gian mở rộng thêm. Trong nhà trạm khắc không cầu kỳ. Ngoài một số hình lá lật, một vài chữ triện đơn giản, kỹ thuật ở đây chủ yếu là ghép mộng, ngang bằng sổ ngay dứt khoát, kết cấu với nhau chặt chẽ. Tấm ảnh Nguyễn Khuyến đầu đội khăn lượt mặc áo dài, tay nâng chiếc chén hạt mít, chụp lúc sinh thời được đặt trang trọng trong Từ đường. Nguồn: Báo Hà Nam Điện Tử
Hà Nam 2014 lượt xem
Từ đường ( nhà thờ ) Lương Quận Công Trần Như Lân ở thôn Thượng Lang xã Ngọc Lũ, Bình Lục, Hà Nam. Nhà thờ này được con, cháu, chắt trong dòng họ xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 2 (1681) sau 46 năm khi Quận Công Trần Như Lân qua đời. Ngôi nhà 5 gian làm toàn bằng gỗ lim, mỗi vì kèo có 4 cột, cột cái có đường kính trên 30cm, tất cả các thân cột đều đặt trên các chân tảng bằng đá xanh, 3 mặt nhà thờ xây tường gạch, đằng trước là hệ thống cửa gỗ lim chạy suốt 5 gian có thể tháo lắp dễ dàng, mặt ngoài hai đầu hồi phía trên đắp hổ phù, đằng trước nằm sát phía đầu hồi là hai cột đồng trụ, tạo cho ngôi nhà thêm khang trang bề thế. Tất cả đều lợp bằng ngói nam. Bờ nóc phía hai đầu hồi đắp 2 con kim. Những biểu tượng này dễ cho mọi người thấy những nhân vật được thờ ở đây mang nhiều chất võ công hơn là văn trị. Tại nhà thờ Quận công còn có nhiều đồ thờ phong phú đa dạng bao gồm nhiều loại chất liệu như gỗ, kim loại quý, gốm sứ, đá, vải... Tất cả các đồ thờ bằng gỗ đều được sơn son thiếp vàng, ánh màu rực rỡ. Đặc biệt tại đây còn lưu giữ được 15 đạo sắc phong từ thời Hậu Lê. Đạo sắc sớm nhất là ngày 05-12-1769 (năm Vĩnh Tộ thứ 5). Phong chức Quận công tả đô đốc thiểu bảo, kiệt tiết công thần thượng trụ quốc Trần Như Lân. Đạo sắc phong cuối cùng cho Trần Như Tiệp (đời thứ 7 của dòng họ Trần Như Lân ngày 19-7-1769) năm Cảnh Hưng thứ 30). Tại nhà thờ còn có các văn bia, gia phả cách đây hơn 300 năm giúp nhiều cho việc nghiên cứu lịch sử một thời đã qua của quê hương đất nước. Qua các tài liệu còn lưu giữ và truyền thuyết trong vùng kể lại: Trần Như Lân sinh năm 1563 tại lang Kim Lũ (nay là xã Ngọc Lũ, huyện Bình Lục) trong một gia đình nông dân nghèo. Bố đẻ mất sớm sống trong cảnh mẹ góa con côi, ông sớm có ý thức tự chủ để gánh vác mọi công việc của gia đình do người cha để lại. Từ các việc chăn trâu, kiếm củi làm thuê ông đều không quản ngại. Ông còn ham luyện tập võ nghệ và học hỏi nên đã giúp cho mình có trí rộng tài cao và sức khỏe phi thường. Trong lúc này tình hình đất nước rối ren, phân chia, lòng người ly tán, dân chúng lầm than bởi cuộc nội chiến liên miên. Vốn tính cứng rắn phong độ oai hùng Trần Như Lân đã hết lòng phò vua giúp nước an dân. Việc gì được giao cũng hoàn thành. Đối với quê hương, Trần Như Lân và con cháu của người luôn mong muốn cho quê nhà đổi thay đi lên. ông và mọi người đã giúp để sửa chữa đình làng, chùa thờ phật, cải tạo mở rộng chợ Kim Lũ (Chợ Chủ) ông còn đắp đường xây cầu cống, lập bến đò cho nhân dân tiện đi lại, khuyến khích nhân dân khai phá đất hoang để cải thiện đời sống, mua thêm đất cho dân làng cày cấy để lo việc chung. Đặt tên cho một số xóm và cánh đồng của làng xã. Tổ chức một số sinh hoạt thường niên của làng. Từ những đóng góp thiết thực cho quê hương ông đã được nhân dân địa phương tôn kính và suy tôn làm phục thần làng ngay khi ông còn sống. Sau khi ông mất, hàng năm xuân thu, nhị kỳ khi làng mở hội, ông còn được hưởng tế lễ ở đình làng. Hiện tại chùa Ngọc Lũ còn có nhiều tượng các vị bồ hậu là các bậc phu nhân của dòng họ Trần Như do có nhiều đóng góp tiền bạc, ruộng đất trong các đợt tu sửa chùa nên được tạc tượng để thờ ( Có 6 pho tượng nữ). Từ đường Lương Quận Công Trần Như Lân được xếp hạng di tích Lịch sử cấp quốc gia ngày 16/01/1995. Nguồn: Lịch Sử Họ Trần Như
Hà Nam 1937 lượt xem
Căn cứ địa Lạt Sơn - nơi mà Nữ tướng Lê Chân lập căn cứ và hy sinh trong cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào mùa Xuân Canh Tý năm 40 (sau Công nguyên). Đây là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của nhân dân Âu Lạc chống lại thế lực phong kiến Đông Hán phương Bắc. Khởi nghĩa giành thắng lợi, Trưng Trắc xưng vương, phong Lê Chân là “Thánh Chân công chúa” giao nhiệm vụ: “Chưởng quản binh quyền nội bộ” đóng bản doanh ở trung tâm Giao Chỉ để coi giữ vùng biển phía Đông (Đông Bắc nước ta). Thời gian sau, nhà Đông Hán lại sai Mã Viện mang quân quay trở lại xâm lược ta, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bị thất bại, Lê Chân đã bí mật đưa đoàn quân của mình tới hoạt động tại vùng Hải Phòng (Kiến An) - Hải Dương - Thái Bình - Hà Nam ngày nay. Khi cuộc chiến chống quân xâm lược Đông Hán rơi vào thế nguy cấp, Nữ tướng Lê Chân tiếp tục cùng thủy binh xuôi về nam đồng bằng sông Hồng và chọn vùng rừng núi hiểm trở Lạt Sơn (Kim Bảng, Hà Nam) để làm căn cứ phòng thủ chặn quân Đông Hán. Sở dĩ Lê Chân chọn Lạt Sơn làm căn cứ địa vì nơi đây có vị trí hiểm yếu, lưng tựa vào dãy núi hình cánh cung ở phía Tây chạy từ Bắc xuống Nam; trước mặt, phía Đông là sông Đáy, sông Ngân như hai hào nước. Địa hình căn cứ tiến có thể đánh, lui có thể giữ, đầu cuối hô ứng lẫn nhau. Trận địa phòng thủ được xây dựng ở các thung lũng trước núi, ở các hang động và các đồi đất lẫn đá kéo dài khoảng 7 km từ Bắc xuống Nam. Đầu căn cứ ở phía Bắc, đặt tiền đồn ở thung Mộc Bài, nơi đây bố trí đội quân tiên phong chặn mũi tiến công đầu tiên của quân thù... phía sau Mộc Bài là đồi Dốc Voi Trượt nơi bố trí đội tượng binh. Tiếp xuống phía Nam, lần lượt là thung Hóc Bạc có kho lương thực, hậu cần; thung Bể (hay còn gọi là thung Mơ), thung Dâu nơi đóng đại quân. Hang Diêm trên sườn núi phía Nam thung Bể là nơi đặt tổng hành dinh. Phía Tây thung Dâu là núi Thượi (cao khoảng 225m), nơi đặt vọng gác, quan sát được toàn bộ căn cứ. Gần núi Thượi có đồi Điểm quân, có lẽ là địa điểm tập hợp, kiểm đếm số lượng binh sĩ. Sau Thung Dâu là hai thung Đội Nhất, Đội Nhì, nơi trú đóng của hai đội quân, thung Đồng Loạn gần địa điểm Giát Dâu, nơi diễn ra trận quyết chiến ác liệt nhất giữa nghĩa quân và quân xâm lược. Đồi Ông Tượng, điểm đầu căn cứ cách không xa sông Ngân về phía Tây. Một số địa danh trong khu căn cứ như đồi Dướn, Non Tiên, thung Thùng Chạ, đặc biệt hồ Trứng rộng mấy chục mẫu. Khi Mã Viện đưa quân đến vây hãm, mở nhiều trận tấn công. Nữ tướng Lê Chân tổ chức kháng cự cả trong các thung và trên dòng sông Ngân. Các trận đánh ác liệt diễn ra, quân ta chiến đấu kiên cường. Quân giặc nhanh chóng phá vỡ tiền đồn Mộc Bài, tràn vào thung Hiên, thung Bể, dồn nghĩa quân về Đồng Gơ. Trận huyết chiến ác liệt cuối cùng diễn ra ở thung Đồng Loạn. Do không đủ lực lượng đánh bại quân thù, nữ tướng Lê Chân cùng tướng tâm phúc rút lên núi Giát Dâu. Từ đỉnh núi cao, sườn dốc đứng, Nữ tướng Lê Chân gieo mình tự vẫn để khỏi phải sa vào tay giặc. Tướng tâm phúc đã mai táng Nữ tướng Lê Chân ở một hang động trong căn cứ Lạt Sơn. Sau này, để khắc ghi, tưởng nhớ công lao to lớn của Nữ tướng Lê Chân, người dân Thanh Sơn đã thành kính tôn vinh Bà với danh hiệu cao quý: “Đức Thánh Mẫu”, đồng thời tạc tượng và lập đền thờ ở cửa rừng, trên đồi Ông Tượng. Gần 2000 năm đã trôi qua, song những tên đất, tên núi, tên sông, di tích, di vật tồn tại nơi đây vẫn còn đó, gợi nhắc cho các thế hệ hôm nay về địa danh lịch sử gắn truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc. Với những giá trị về lịch sử, văn hóa kể trên, vùng căn cứ địa Lạt Sơn (với 3 địa điểm tiêu biểu: Đền Lê Chân, Động Thánh Chân, núi Giát Dâu) - vừa là nơi ghi dấu những sự kiện lịch sử, vừa là nơi thờ phụng, tôn vinh công lao của Nữ tướng Lê Chân đối với vùng đất này, đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp quốc gia năm 2023. Nguồn: Báo Hà Nam Điện Tử
Hà Nam 1919 lượt xem
Làng Dâu còn gọi làng Mỹ Đôi, thuộc xã An Mỹ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. nằm trên địa bàn có bề dày lịch sử. Nơi đây, thờ ba chị em Ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế chỉ huy nghĩa binh đánh giặc Minh đầu thế kỷ XV. Theo Ngọc phả đình Dâu và truyền thuyết địa phương thì thân phụ của chị em Ả Đào từ vùng Tiên Lữ, Hưng Yên, sang xã Bồ Xá Bình Lục lấy vợ lẽ là Thị Hương và sinh được Ả Đào, Nguyễn Phương, Nguyễn Quế. Hồi đó giặc Minh xâm lược nước ta, sát hại sinh linh, cướp phá tài sản, gây nhiều thảm cảnh ở Trang Cổ Thọ (nay thuộc xã An Mỹ). Trước những hành động bạo ngược của giặc Minh, Ả Đào bàn với hai em và dân làng tìm cách đánh giặc trừ hại cho dân. Nghĩa binh hai làng Bồ Xá, Cổ Thọ quyết định đánh úp căn cứ giặc Minh. Vào lúc nửa đêm ngày 14 tháng 2, Ả Đào chia quân làm ba đạo, phối kết hợp với dân làng Cổ Thọ tập kích phá đồn giặc. Trước giờ xuất phát, nghĩa quân lấy bánh dầy làm lương ăn, lấy mía thay nước và tuyệt đối không dùng lửa. Trận tập kích phá đồn giặc thành công. Nhân dân cổ Thọ được giải phóng, lấy lại sự thanh bình cho làng quê. Để ghi nhớ công ơn những người anh hùng cứu dân, cứu nước, nhân dân địa phương đã thiết lập đền thờ trên các đường tiến quân. Do vậy mà làng Dâu có ba ngôi đền nhỏ ở ba phía, mỗi đền thờ một vị tướng như Ả Đào tiên chúa, Nguyễn Phương đại vương, Nguyễn Quế đại vương. Nhân dân làng Dâu còn xây dựng ngôi đình to lớn mái cong, với sự gia công nghệ thuật điêu khắc công phu để làm nơi cộng đồng thờ chung các vị và qua nhiều thời đại, đều được Sắc phong với lời lẽ tốt đẹp. Điều đặc biệt là lệ làng lấy ngày 15 tháng 2 để trình diễn , “Phá đồn minh binh, diễn khai sự tích", (mở cuộc thao diễn sự tích đánh đồn giặc Minh). Ngoài truyền thuyết trên, đình làng Dâu còn thờ hai vị Tiến sĩ là Bùi Công Bang và Bùi Công Minh. Hai vị tiến sĩ thời nhà Lê đã làm rạng danh và là biểu tượng của sự hiếu học của nhân dân làng Dâu. Trong thời đại Hồ Chí Minh, làng Dâu cũng là một “địa chỉ đỏ”, nơi viết nên những trang sử hào hùng của Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Lục. Năm 1930, chi bộ Đảng xã Mỹ Thọ được chính thức thành lập tại khu miếu trong quần thể di tích đình làng Dâu; khởi phát cho phong trào đấu tranh kiên cường chống sự đô hộ của thực dân Pháp. Đình làng Dâu và những đảng viên ưu tú của quê hương đã che chở, bao bọc cho nhiều chiến sĩ cách mạng tiền bối như đồng chí Hoàng Quốc Việt (Xứ ủy Bắc Kỳ), đồng chí Trần Tử Bình, Phạm Mộng Sách, Cả Tất... khi các đồng chí này về lãnh đạo phong trào cách mạng ở Hà Nam. Những năm 1950-1954, nhiều lần du kích làng Dâu đã bao vây, tấn công vị trí địch trên Đường 21, cũng như các đồn bốt xung quanh. Tháng 3-1954, Đại đội 37 của tỉnh Hà Nam và Đại đội 60 của huyện Bình Lục đã đánh tập kích tiểu đoàn 9 của Pháp, gây cho chúng nhiều tổn thất. Với những giá trị lịch sử, văn hóa của đình làng Dâu và sự lan tỏa của nó đến truyền thống đấu tranh cách mạng hào hùng của nhân dân địa phương, Nhà nước đã có quyết định công nhận đình làng Dâu là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia; Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Bình Lục Tỉnh Hà Nam
Hà Nam 1833 lượt xem
Theo sử sách ghi lại Nữ tướng Lê Chân sinh ngày mùng 8 tháng 2 năm 20 đầu Công nguyên. Bà sinh ở miền biển Quảng Ninh; lập trang ấp, rèn quân binh tại thành phố biển Hải Phòng nhưng lại tuẫn tiết ở miền núi vùng Lạt Sơn (nay là thôn Hồng Sơn, Kim Bảng, Hà Nam). Mang mối thù nhà, nợ nước, nghe lời truyền hịch cứu nước của Trưng Nữ Vương, Lê Chân đã đem nghĩa quân theo Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa đánh đuổi giặc Hán. Núi Giát Dâu là ngọn núi cao nhất vùng Lạt Sơn, nơi đây ngày 13 tháng 7 năm 43, không địch lại giặc Hán, nữ tướng đã tuẫn tiết gieo mình từ trên đỉnh núi xuống thung lũng. Nhân dân trong vùng tưởng nhớ lập bàn thờ dưới chân núi, xây dựng chùa và đền thờ bà, nơi này vẫn còn dấu tích trong rừng Lạt Sơn. Đền Lê Chân hiện nay nằm trên Đường Lê Chân, thôn Hồng Sơn, mặt chính điện quay hướng Nam. Trước cửa đền ngày trước là sông Ngân – chi lưu của sông Đáy, phía sau đền gối vào đồi Ông Tượng. Tổng thể kiến trúc khu đền gồm: Đền chính, phủ bóng, động Sơn trang, nhà khách và các công trình phụ trợ tạo thành một quần thể khép kín với diện tích trên 4.000m2. Trên sân, trước cửa đền tượng nữ tướng đứng oai nghiêm, tuốt kiếm hướng mặt về căn cứ địa xưa. Bức tượng được dựng trước khi xây lại đền (năm 2006) và được phỏng tác theo mẫu tượng nữ tướng ở đền Thủy An (Quảng Ninh) là nơi sinh của bà. Lễ hội lớn nhất được diễn ra tại đền thờ là vào ngày 13/7 âm lịch hàng năm( ngày hóa nữ tướng). Người dân sẽ tổ chức lễ hội nhằm tưởng nhớ công lao của nữ tướng, đồng thời cầu cho người dân đi rừng, làm nương thuận lợi… Từ ngày 11/7 dân làng đã bắt đầu chuẩn bị làm lễ cáo yết ở đền, xin phép mở hội. Vào dịp lễ hội, đền đón tiếp rất nhiều đoàn khách trong và ngoài tỉnh về đền tế lễ. Ngày hội chính 13 tháng 7. Sáng sớm, dân làng và du khách đã về tập trung tại đền để làm lễ rước kiệu vào đình làng. Nguồn: Báo Hà Nam điện tử
Hà Nam 1774 lượt xem
Đình và chùa Cổ Viễn thuộc xã Hưng Công, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Đình Cổ Viễn là công trình kiến trúc quy mô gồm 4 toà làm theo lối nội đinh, ngoại quốc. Mặc dù đã nhiều lần tu sửa, tôn tạo nhưng di tích vẫn bảo lưu được đường nét nghệ thuật của hai thế kỷ 17 và 18. Ngoài việc tạo độ bền vững chắc chắn, các cấu kiện kiến trúc trên công trình còn được đục chạm nhiều đề tài sinh động mang đậm phong cách điêu khắc của thời Hậu Lê như rồng chầu, phượng múa, lá lật hóa long, vân ám, lá hỏa. Cùng với vẻ đẹp về kiến trúc đình Cổ Viễn còn gìn giữ được một số đồ thờ có giá trị nghệ thuật. Đó là chiếc án thư khá lớn kê ở gian giữa tiền đường có dáng dấp độc đáo, bố cục họa tiết hợp lý, trang trí nhiều đề tài dân gian với những đường đục chạm, nhấn tỉa mạch lạc. Tại chính tẩm đình có một ngai thờ là tác phẩm nghệ thuật của thời Hậu Lê. Ngoài việc trang trí nhiều đề tài, họa tiết với kỹ thuật đục bong chạm lộng công phu, ngai thờ còn được phủ một lớp vàng son lộng lẫy góp phần làm tăng thêm không khí trang nghiêm nơi thờ tự. Chùa Cổ Viễn nằm liền sát với đình Cổ Viễn, tên chữ là “Linh Quang Tự” (chùa Linh Quang). Công trình gồm 2 tòa chính, 8 gian thiết kế kiểu chữ đinh, mái phẳng lợp ngói nam. Ngoài ra đằng sau còn có nhà tổ 5 gian, phía tây là phủ thờ 5 gian kiến trúc kiểu tiền đao, hậu đốc. Theo truyền thuyết địa phương thì chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Tuy nhiên do thời gian và ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, chiến tranh, chùa Cổ Viễn đã nhiều lần tu sửa, hiện nay kiến trúc của công trình hoàn toàn mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Căn cứ vào cuốn, Địa dư huyện Bình Lục thì đình Cổ Viễn là nơi thờ Nguyễn Hoằng tướng thời Hùng Duệ Vương. Nguyễn Hoằng là người tinh thông văn võ từ thuở nhỏ nên đến tuổi trưởng thành Nguyễn Hoằng được Tản Viên Sơn thánh tiến cử vào triều. Được phong chức , Dũng lược tướng quân, ông thường hộ giá nhà vua đi chu du khắp nơi. Một lần qua trang Cổ Viễn thấy dân ở đây hiền lành, chất phát ông liền cho lập hành cung làm nơi đi lại nghỉ ngơi. Khi giặc Thục đem quân quấy phá, Nguyễn Hoằng đã động viên được 28 người trang Cổ Viễn theo ông lên đường đánh giặc. Kháng chiến thắng lợi ông được triều đình phong tặng là “Hùng lược cao Huân Hồng Liệt đại vương”, cho thực ấp ở phủ Thiên Trường và miễn trừ sưu dịch cho dân làng Cổ Viễn. Sau khi Nguyễn Hoằng qua đời, để ghi nhớ công lao của ông, nhân dân trang Cổ Viễn đã lập đình thờ tôn làm thành hoàng muôn đời hương khói phụng thờ. Cũng theo ngọc phả hiện đang lưu giữ tại di tích thì ngoài việc thờ phật theo phái Đại thừa, chùa Cổ Viễn còn thờ Phạm Công chúa là con của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân. Phạm Công chúa là người tài sắc nết na nhưng khi đến tuổi trăng tròn lại không hề nghĩ đến chuyện nhân duyên mà chỉ xin vua cha cho lập cung riêng ở làng Gia Quất để khuyên dân cày cấy làm ăn và cứu giúp những người nghèo đói, bệnh tật. Ngoài việc thờ tự đình chùa Cổ Viễn còn đóng góp nhiều công lao cho cách mạng, kháng chiến giải phóng quê hương đất nước. Khu di tích là cơ sở tin cậy nuôi dưỡng bảo vệ cán bộ Xứ uỷ, Liên tỉnh uỷ C, Tỉnh uỷ Hà Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đình chùa Cổ Viễn còn là nơi cất giấu tài liệu và địa điểm tập trung lực lượng của dân quân du kích địa phương đánh trả những cuộc càn quét của địch vào thôn xóm. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Huyện Bình Lục Tỉnh Hà Nam
Hà Nam 1762 lượt xem