Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Đâu là địa điểm cầu hôn cho các cặp đôi ở Việt Nam siêu lãng mạn? Tham khảo các gợi ý bên dưới cùng 63Stravel để có thêm những lựa chọn phù hợp tổ chức một ngày trọng đại cho tình yêu của mình nhé!
Bạn đang tìm kiếm một địa điểm cầu hôn đẹp tại Việt Nam? Bạn mong muốn có một buổi cầu hôn thành công, lưu lại những khoảnh khắc lãng mạn cùng người ấy? Đừng quá lo lắng, dưới đây 63Stravel gợi ý đến bạn 10 địa điểm cầu hôn cho các cặp đôi ở Việt Nam siêu HOT nhất.
Tham khảo 10 gợi ý bên dưới để có thể chọn được địa điểm cầu hôn siêu đẹp, siêu lãng mạn cùng người ấy nhé!
Landmark 81 là toà nhà cao nhất Việt Nam với tổng độ cao lên tới 461,2m. Tọa lạc tại trung tâm thành phố, đứng ở trên cao bạn có thể nhìn thấy toàn cảnh thành phố Hồ Chí Minh nhộn nhịp, đầy sức sống với những ánh đèn rực rỡ.
Landmark81 - Địa điểm cầu hôn lãng mạn khiến nàng "tan chảy"
Đây cũng chính là địa điểm cầu hôn được nhiều cặp đôi tại Việt Nam lựa chọn để ngỏ lời yêu thương. Thật lãng mạn khi cùng dùng bữa tại một không gian lộng lẫy, cùng nói lời yêu thương và lời nguyện ước tại nơi này.
Địa chỉ: 720A Điện Biên Phủ, Vinhomes Tân Cảng, Bình Thạnh, TP. HCM.
Nhắc đến các địa điểm cầu hôn cho các cặp đôi ở Việt Nam không thể bỏ qua không gian vô cùng xinh đẹp và lãng mạn tại phố cổ Hội An. Nơi đây càng trở nên lung linh hơn khi về đêm. Những chiếc đèn lồng đầy màu sắc được thắp sáng sẽ là dịp để bạn và người ấy có những khoảnh khắc đẹp bên nhau.
Phố cổ Hội An - Điểm cầu hôn lý tưởng dành cho các cặp đôi
Địa chỉ: Phường Minh An, thành phố Hội An, Quảng Nam.
Shri là một nhà hàng Rooftop cao cấp, được thiết kế theo phong cách Châu Âu, nằm ở tầng 23 của tòa nhà Centec Tower tại quận 3. Nhà hàng nổi bật với ẩm thực Châu Âu tinh tế, được chế biến bởi các đầu bếp quốc tế với nguyên liệu được chọn lọc kỹ lưỡng và có nguồn gốc rõ ràng. Ở vị trí rooftop, Shri mang đến cho thực khách một cái nhìn toàn cảnh thành phố Hồ Chí Minh từ trên cao, đầy rực rỡ và ấn tượng.
Quán cà phê Rooftop - Tiệm Cafe “cầu hôn” hot rần rần
Nhà hàng có những không gian được thiết kế lộng lẫy dưới bầu trời đầy sao, đây là không gian tuyệt vời để bạn thoải mái thực hiện màn cầu hôn cùng người ấy. Ngoài ra, nếu bạn không thích sự ồn ào và muốn có sự riêng tư, nhà hàng vẫn có khu vực dành cho VIP để cả hai có không gian riêng bày tỏ tình cảm.
Địa chỉ: 72 – 74 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 6, Quận 3, TP. HCM.
>> Đọc thêm: Top 10 ứng dụng đặt phòng khách sạn tại Việt Nam tốt nhất
Được xây dựng với kiến trúc Châu Âu cổ kính và Cầu Vàng nổi bật, Bà Nà Hills tạo ra một khung cảnh giống như trong truyện cổ tích. Nơi đây có rất nhiều nơi được trang trí lãng mạn với đầy đủ hoa tươi, cảnh vật sinh động. Nếu bạn muốn có một buổi cầu hôn đáng nhớ cho người ấy có thể chọn Vườn hoa Le Jardin D’Amour hoặc trên Cầu Vàng.
Hai địa điểm này đều có thiết kế tuyệt đẹp, đảm bảo sẽ mang đến một buổi cầu hôn hoàn hảo. Hơn nữa, các khu vực khác tại đây còn cung cấp nhiều dịch vụ hỗ trợ cho buổi cầu hôn của bạn, từ trang trí lãng mạn đến chụp ảnh chuyên nghiệp, giúp bạn ghi lại những khoảnh khắc đáng nhớ cùng nhau.
Địa chỉ: Thôn An Sơn, Hòa Vang, Đà Nẵng.
Nếu bạn đang tìm kiếm các địa điểm cầu hôn cho các cặp đôi ở Việt Nam siêu lãng mạn thì đừng bỏ qua địa điểm Thung Lũng Tình Yêu tại Đà Lạt này nhé! Đây chính là biểu tượng của một tình yêu đẹp, toạ lạc trong trung tâm thành phố ngàn hoa.
Thung Lũng Tình Yêu - Địa điểm cầu hôn siêu lãng mạn
Đến đây, bạn và người ấy có thể cùng tổ chức một buổi picnic bên hồ Đa Thiện, đạp vịt dạo quanh hồ hay chọn một góc thơ mộng giữa rừng thông để cầu hôn. Lưu ý rằng, bạn cần chuẩn bị thêm áo ấm vì thời tiết nơi đây rất lạnh hoặc kiểm tra thời tiết để tránh những cơn mưa làm hỏng buổi tiệc bạn kỳ công tạo ra nhé!
Địa chỉ: Đường Mai Anh Đào, Phường 8, Thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng.
Trong thời gian gần đây, cầu Hôn tại Phú Quốc chính là cái tên siêu HOT được đông đảo bạn trẻ biết đến. Tọa lạc tại vị trí đắc địa trên bãi biển Phú Quốc xinh đẹp, cầu Hôn (Kiss Bridge) trở thành địa điểm ngắm hoàng hôn độc nhất thế giới (do tờ nhật báo La Stampa – Ý bình chọn). Chính nhờ vẻ đẹp kiêu sa, cái tên đầy ý nghĩa mà cầu Hôn Phú Quốc đã trở thành địa điểm cầu hôn cho các cặp đôi ở Việt Nam hiện nay.
Cầu Hôn Phú Quốc - Địa điểm check in đốn tim các cặp đôi với view hẹn hò cực lãng mạn
Địa chỉ: An Thới, Phú Quốc, Kiên Giang.
Công viên Thỏ Trắng là điểm đến nổi tiếng tại Hồ Chí Minh, đồng thời là khu giải trí thu hút giới trẻ với nhiều trò chơi vui nhộn. Đặc biệt, vào hai ngày cuối tuần, công viên trở nên đông đúc hơn bao giờ hết.
Công viên Thỏ Trắng - Rủ bạn gái đi chơi và cầu hôn thật tuyệt vời tại đây
Vào ban đêm, công viên Thỏ Trắng lung linh và rực rỡ với ánh sáng đèn neon, tạo nên một không gian đầy màu sắc. Đây sẽ là một địa điểm lý tưởng để cầu hôn bất ngờ, chẳng hạn như tại vòng xoay ngựa gỗ, gợi nhớ đến những bộ phim tình yêu lãng mạn. Bên cạnh đó, công viên còn có nhiều khu vực và trò chơi khác để bạn có thể lên kế hoạch cầu hôn theo cách riêng của mình, tạo nên một khoảnh khắc lãng mạn và khó quên.
Địa chỉ: 875 Cách Mạng Tháng 8, Phường 15, Quận 10, TP. HCM.
Nếu bạn đang tìm kiếm một địa điểm cầu hôn lãng mạn, hòa quyện giữa thiên nhiên và sự sang trọng ngay trong lòng thành phố, thì nhà hàng The LOG chính là lựa chọn đáng cân nhắc. Không gian The LOG được thiết kế theo kiểu Pháp với tông gỗ trầm ấm, kết hợp cùng cây xanh và ánh đèn vàng rực rỡ tạo cảm giác ấm cúng và gần gũi.
Nhà hàng The LOG - Không gian lãng mạn để cầu hôn
Nơi đây khá thích hợp cho một buổi tối lãng mạn chỉ có hai người. Bên cạnh đó, nhà hàng còn nổi bật với các món ăn Tây được chế biến theo phong cách Fusion hiện đại bởi những đầu bếp chuyên nghiệp, sẽ làm cho màn cầu hôn của bạn thêm phần hoàn hảo.
Địa chỉ: Số 8 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đa Kao, Quận 1, TP. HCM.
>> Đọc thêm: Gợi ý 9 địa điểm săn mây đẹp nhất ở Việt Nam hiện nay
Hồ Bán Nguyệt là một địa điểm nổi tiếng và quen thuộc với các cặp đôi yêu nhau tại thành phố Hồ Chí Minh. Hồ được thiết kế chủ yếu với yếu tố nước và được trang trí bằng đèn LED nhiều màu sắc. Bắc ngang qua hồ Bán Nguyệt là cây cầu biểu tượng của thành phố – Cầu Ánh Sao.
Công viên Hồ Bán Nguyệt - Điểm cầu hôn cho cặp đôi ở TP. HCM
Cầu được trang bị hàng ngàn bóng đèn tròn, tạo nên cảnh tượng lãng mạn như "trăng trên trời, sao dưới đất," tựa như một bức tranh thơ mộng. Vào khung giờ 17h30 đến 18h00 nơi đây có tiết mục phun nước, giữa những ánh đèn nổi bật lên những tia nước như cầu vồng càng khiến nơi đây thêm phần rực rỡ, lung linh. Đây chính là thời gian thích hợp để màn cầu hôn của bạn thêm phần cảm xúc và ý nghĩa nhất.
Địa chỉ: Khu đô thị Phú Mỹ Hưng, Quận 7, TP. HCM.
Vịnh Vĩnh Hy cũng là một trong những điểm đến lý tưởng của nhiều cặp tình nhân trong nước và quốc tế. Nơi đây làm say mê lòng người bởi làn nước xanh biết trong thấy đáy, những mỏm đá nhấp nhô bên biển và những hình ảnh thân thuộc, gần gũi. Bất kỳ một khung cảnh nào tại Vịnh Vĩnh Hy cũng tạo không gian lãng mạn để bạn và người ấy có những giây phút đẹp bên nhau.
Cầu hôn ở vinh Vĩnh Hy thật lãng mạn cho các cặp đôi
Địa chỉ: Xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.
Trên đây là tổng hợp 10 địa điểm cầu hôn cho các cặp đôi ở Việt Nam siêu HOT, siêu lãng mạn mà bạn có thể tham khảo. Hãy cân nhắc thật kỹ và chuẩn bị một không gian thật ấn tượng để một nửa yêu thương của bạn nhớ mãi ngày trọng đại này nhé!
Chùa Một Cột được khởi công xây dựng vào năm Kỷ Sửu 1049, dưới thời vua Lý Thái Tông. Theo truyền thuyết dân gian, trong một giấc chiêm bao vua Lý Thái Tông đã mơ thấy Phật bà Quan Âm đang tọa trên đài sen tỏa ánh hào quang và mời nhà vua lên cùng. Tỉnh giấc chiêm bao nhà vua liền kể với bề tôi. Nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua nên dựng chùa trên trụ đá y như trong giấc mơ, làm tòa sen để Phật bà ngự ở trên. Trong sử sách có chép lại tại vị trí chùa Một Cột bây giờ có một cột đá phía trên có ngôi lầu ngọc, trong lầu ngọc có tượng Phật Quan Âm đã được dựng ở hồ nước vuông. Nhà vua thường lui tới tụng kinh niệm phật, cầu nguyện. Sau hoàng tử nối dõi tu sửa lại thành chùa và dựng thêm một ngôi chùa bên cạnh cách 10 m về phía Tây Nam. Cụm di tích này được đặt tên Diên Hựu Tự với mong muốn “phước lành dài lâu”. Năm 1105 vua Lý Nhân Tông cho tu sửa chùa và dựng thêm trước sân hai tháp lợp sứ trắng. Đến năm 1108 Nguyên Phi Ỷ Lan sai người đúc một chiếc chuông lớn đặt tên là “Giác thế chung” với ý nghĩa thức tỉnh lòng thế nhân. Trong chiến tranh chống Pháp chùa Một Cột đã bị quân viễn chinh Pháp cho đặt mìn phá hủy. Sau khi tiếp quản thủ đô Bộ Văn hóa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nghiên cứu lập dự án đại trùng tu xây dựng lại chùa Một Cột y như kiến trúc ban đầu. Đến năm 1955 chùa Một Cột Hà Nội được tôn tạo lại và bảo tồn cho đến nay. Bên cạnh vẫn còn ngôi chùa có cổng tam quan với bức hoành phi ghi ba chữ “Diên Hựu Tự”. Năm 1962, quần thể chùa Một Cột ở Hà Nội đã được công nhận là Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật Quốc gia. Đến năm 2012, chùa Một Cột đã vinh dự được Tổ chức Kỷ lục châu Á xác lập kỷ lục “Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Châu Á”. Kết cấu nguyên bản của chùa Một Cột được đỡ bởi các dầm gỗ bám chắc cột đá. Cấu trúc của chùa Một Cột hiện nay gồm: Cột trụ, đài Liên hoa, mái chùa. Cột trụ của chùa một cột được dựng bằng 2 cột đá chồng lên nhau tạo thành khối trụ đứng có chiều cao 4 m chưa tính phần chìm phía dưới chân Đường kính cột đá rộng 1,2 m làm người nhìn có cảm giác “vững như bàn thạch”. Đài Liên hoa có hình vuông mỗi cạnh 3 m, chắn song bao lơn xung quanh, được đỡ bằng hệ thống cột quân vững chắc, phía dưới là những dầm gỗ lớn được gắn trực tiếp lên trụ đá một cách chắc chắn. Các mối mộng được đục chính xác đến từng ly khớp nối vừa khít với nhau tạo nên cấu trúc vô cùng vững chãi. Bên trong đài Liên Hoa được bài trí lộng lẫy sang trọng, có một án thờ bên trên đặt tượng Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay mạ vàng. Xung quanh bày biện nhiều đồ thờ: đôi lục bình gốm sứ, bình cắm hoa sen, bộ ấm chén thờ, lư hương bằng đồng. Ban thờ được sơn son thiếp vàng trang trí nhiều họa tiết hình vân mây màu vàng. Trên trần phía trong cùng đặt tấm hoành phi nhỏ ghi 3 chữ vàng “Liên Hoa Đài” trên nên sơn đỏ. Mái chùa được lợp bằng ngói vảy truyền thống màu đỏ gạch phủ lớp rêu phong thời gian. Mỗi viên ngói như biểu hiện của sự kỳ công, tỉ mỉ của người thợ làm ra. Khi lợp ngói khó nhất công đoạn ghép ngói ở góc xối sao cho không hở một khe nào, vì đây là vị trí tiếp giáp giữa bốn cạnh của mái chùa thường có khe hở. Muốn lợp ngói ở vị trí này thuận tiện thì ngay từ công đoạn đóng sối ghép các mối mộng phải thực sự kín kẽ và ăn khớp nhau. Chùa Một Cột có bốn mái cong đầu đao vút lên trời hay còn gọi là “tàu đao”. Mái chùa được đỡ bằng hệ thống thanh bẩy vươn ra sát phía dưới. Trên đỉnh mái chùa đắp hình “lưỡng long chầu mặt nguyệt”, đây là nét kiến trúc đặc trưng trong các chùa, chiền, đình, miếu. Hình lưỡng long uốn mình quay đuôi về phía nhau nhưng đầu đều hồi hướng về mặt nguyệt. Nét kiến trúc này biểu tượng cho sự sinh sôi, âm dương hài hòa. Đôi long tượng trưng cho khí dương, hình mặt nguyệt tượng trưng cho khí âm. Tổng lại thành con số ba của sự sinh sôi nảy nở, cũng vì lẽ đó khi đi chùa người ta hay thắp 3 nén nhang là biểu trưng cho 3 vật thể trong “lưỡng long chầu mặt nguyệt”. Đây là một hình ảnh mang đậm chất nhân văn trong kiến trúc nghệ thuật tâm linh của dân tộc. Hoa sen được xem như biểu trưng trong văn hóa Phật giáo, gợi đến cho người ta những đức tính lương thiện, kiên nhẫn, không nhiễm tạp, hành trực … Liên Hoa Đài được tạo tác theo hình tượng bông sen đặt trên trụ đá cao giữa lòng hồ Linh Chiểu như đang vươn mình hướng lên thoát khỏi thế tục. Một hình ảnh vô cùng thanh tao, thuần khiết và độc đáo. Hồ Linh Chiểu có tường hoa bao quanh trang trí bằng những họa tiết hình khối. Bên ngoài có đào thêm một hồ lớn nữa là hồ Bích Trì. Hồ Bích Trì thuộc trong khuôn viên chùa Diên Hựu nằm bên phải chùa Một Cột. Trước sân chùa Diên Hựu đựng tháp đá Bạch Tuynh, từ tháp đá có cầu nhỏ dẫn vào chùa Một Cột. Vào ngày rằm, mùng Một hàng tháng bạn quan lý tổ chức khánh tiết lau dọn và thực hành lễ cúng trong chùa. Người dân cũng hay đến tham quan và chiêm bái từ xa. Mùa hè chùa mở của đón khách vào tất cả các ngày trong tuần, đến mùa đông đóng cửa tất cả các ngày thứ Hai và thứ Sáu trong tuần. Vào chùa tham quan không mất phí. Đến với chùa Một Cột người ta thường cầu cho trí tuệ viên mãn, sinh khí tràn đầy. Qua những nét kiến trúc nghệ thuật vô cùng nhân văn văn đẹp đẽ như sự tinh khôi thanh thoát của cánh sen biểu trưng cho trí tuệ viên mãn. Cột trụ hình trụ – dương khí nằm giữa hồ Linh Chiểu – âm khí kết hợp mang đến sự sinh sôi trường thọ nối tiếp.
Hà Nội 2477 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Quảng trường Ba Đình nằm ngay ở trung tâm thủ đô Hà Nội tại số 2 Hùng Vương, Điện Bàn, quận Ba Đình. Quảng trường Ba Đình chính là nơi mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập. Quảng trường mở cửa cho du khách vào tham quan từ 5 giờ đến 22 giờ mỗi ngày. Tổng thể quảng trường có chiều chiều dài dài khoảng 320 mét và chiều rộng khoảng 100 mét với 210 ô cỏ. Ở trung tâm quảng trường có một cột cờ với chiều cao 25 mét. Xung quanh Quảng trường Ba Đình có nhiều công trình quan trọng như: Lăng Bác, bảo tàng Hồ Chí Minh, phủ Chủ tịch, chùa một cột, khu nhà sàn và ao cá Bác Hồ. Thời điểm lý tưởng để ghé thăm Quảng trường Ba Đình, Hà Nội là từ tháng 9 đến tháng 3 hàng năm. Trong những tháng này, thời tiết ở Hà Nội khá mát mẻ và không quá oi bức. Điều này giúp cho các hoạt động tham quan và khám phá Quảng trường Ba Đình cũng như các địa điểm khác ở thủ đô thêm thuận lợi. Bên cạnh đó, vào những tháng cuối năm quang cảnh Hà Nội vô cùng thơ mộng. Khi du lịch Quảng trường Ba Đình bạn sẽ được nhìn ngắm thêm những loài hoa đặc trưng. Sự chuyển biến từ mùa thu sang đông rồi đến mùa xuân mang đến một vẻ đẹp rất riêng của đất thủ đô. Khi đã đến Quảng trường Ba Đình, bạn đừng quên chụp những bức ảnh để làm kỷ niệm. Dù là thời điểm nào thì khung cảnh rộng lớn nơi đây cũng sẽ mang đến những khung hình đẹp mắt. Nếu đi vào buổi sáng hoặc buổi chiều thì sẽ có được ánh sáng tự nhiên. Còn nếu đến Quảng trường Ba Đình buổi tối bạn có thể tận dụng ánh sáng từ các cột đèn chiếu sáng để giúp bức ảnh thêm đẹp mắt. Lăng Hồ Chủ Tịch chính là một trong những view chụp ảnh được rất nhiều du khách yêu thích khi đến đây. Ngoài ra, bạn cũng có thể dễ dàng tìm được những góc chụp đẹp khác. Nên sử dụng những thiết bị có ống kính góc rộng để có thể bắt trọn được vẻ đẹp toàn cảnh của quảng trường. Nằm ngay phía sau Quảng trường Ba Đình, lăng Hồ Chủ Tịch là nơi bạn nên ghé thăm. Lăng mở cửa từ các ngày trong tuần trừ thứ hai và thứ sáu. Thời điểm mở cửa trong ngày sẽ có sự khác biệt giữa từng thời điểm trong năm. Công dân Việt Nam khi vào lăng sẽ không mất phí, riêng đối với khách du lịch nước ngoài thì sẽ là 25.000 VND một lượt. Tổng thể kiến trúc của lăng Hồ Chủ Tịch được xây dựng theo hình khối vuông với 3 lớp, cao 21,6 mét và rộng 41,2 mét. Với kết cấu vững chắc, lăng Hồ chủ tịch có khả năng chống chịu được bom đạn, lũ lụt và động đất. Phía bên ngoài lăng có hàng cột được ốp đá và dòng chữ “CHỦ TỊCH HỒ - CHÍ - MINH” màu đỏ nổi bậc. Phủ chủ tịch là nơi mà Bác Hồ từng ở sinh hoạt, làm việc và diễn ra nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử. Được xây dựng theo lối kiến trúc tân cổ điển của Pháp vào năm 1902, phủ chủ tịch có tất cả 30 phòng với thiết kế đối xứng. Bên cạnh những họa tiết, trang trí độc đáo, màu sơn vàng cũng là một yếu tố để giúp cho phủ chủ tịch thêm phần nổi bậc. Trong khuôn viên phủ chủ tịch Hà Nội có rất nhiều khoảng xanh. Đi dưới những tán cây, du khách có được cảm giác thanh bình giữa trung tâm thủ đô sôi động. Nội thất bên trong phủ chủ tịch được giữ gìn gần như nguyên vẹn từ khi Bác Hồ còn sử dụng cho đến nay. Chủ yếu là những món đồ gỗ đơn giản. Tương tự như lăng Bác, phủ chủ tịch cũng không nhận khách tham quan vào thứ hai và thứ sáu. Bảo tàng Hồ Chí Minh được xây dựng từ năm 1990, đây sẽ là một điểm tham quan hết sức thú vị trong hành trình du lịch Quảng trường Ba Đình của bạn. Đến với bảo tàng, bạn sẽ được tìm hiểu về đời sống và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là nơi lưu giữ nơi lưu giữ những tài liệu, hình ảnh bức tượng và vật dụng lịch sử liên quan đến cuộc đời của Bác. Khám phá bảo tàng Hồ Chí Minh du khách không chỉ được tìm hiểu về một nhân vật lịch sử vĩ đại của đất nước, mà còn được tham quan và khám phá một công trình kiến trúc đặc biệt với những khu triển lãm trưng bày đầy sáng tạo, sinh động.
Hà Nội 2929 lượt xem
tháng 9 đến tháng 3
Hồ Hoàn Kiếm nằm ở trung tâm thủ đô, được bao quanh bởi 3 con phố Hàng Khay – Lê Thái Tổ – Đinh Tiên Hoàng. Trước đây hồ còn có một số tên gọi khác như hồ Lục Thủy (hồ nước xanh) hay hồ Thủy Quân (bởi hồ từng là nơi để huấn luyện thủy binh chiến đấu). Đến thế kỉ thứ XV, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm (trả gươm), gắn liền với sự tích trả gươm báu cho rùa vàng của vua Lê Thái Tổ. Hồ Hoàn Kiếm là nơi tụ hội, điểm hẹn lý tưởng bốn mùa: Rực rỡ trong sắc đào và các lễ hội truyền thống vào mùa xuân; lồng lộng những cơn gió xua tan đi cái nóng oi bức của mùa hè; say đắm với những cành liễu rủ trong màn sương huyền ảo của mùa thu; lộng lẫy trong cơn mưa lá vàng và những giọt mưa phùn lất phất bay của mùa đông. Không chỉ là thắng cảnh đẹp mà du khách không thể bỏ qua trong danh sách những địa điểm du lịch Hà Nội mà đây còn là nơi gắn liền với truyền thống lịch sử tâm linh của thủ đô. Hồ Hoàn Kiếm có hai đảo nổi: Đảo Ngọc nằm ở phía bắc hồ, có cầu Thê Húc uốn cong bắc ngang nối ra đảo. Giữa hồ là đảo Rùa nhỏ hơn, bên trên là ngọn tháp Rùa cổ kính trăm tuổi trầm mặc giữa bốn bề long lanh sóng nước. Vào 3 ngày cuối tuần các đường phố xung quanh hồ Hoàn Kiếm sẽ trở thành phố đi bộ với nhiều hoạt động hấp dẫn như âm nhạc đường phố, các trò chơi dân gian…. thu hút rất đông du khách. Nằm trên đảo Ngọc, đền Ngọc Sơn không chỉ là di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội mà còn là nơi thờ thần Văn Xương, ngôi sao chủ về văn chương khoa cử và Đức thánh Trần Hưng Đạo. Xung quanh đền là quần thể di tích kiến trúc mang nhiều giá trị lịch sử và ý nghĩa nhân văn gồm cầu Thê Húc, tháp Bút, đài Nghiên, đình Trấn Ba. Sự kết hợp giữa quần thể đền Ngọc Sơn và hồ Hoàn Kiếm đã tạo nên một tổng thể kiến trúc cổ kính hài hòa, đăng đối giữa con người và thiên nhiên. Ở cạnh Hồ Gươm là các phố cổ như Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Đường,… nơi du khách có thể tham quan, khám phá cuộc sống, văn hóa và con người cũng như nét ẩm thực độc đáo của Hà Nội. Tượng đài Lý Thái Tổ được đặt tại vườn hoa Chí Linh trên đường Đinh Tiên Hoàng. Đây là công trình kiến trúc văn hóa tiêu biểu ở hồ Hoàn Kiếm nhằm tôn vinh vị vua đã có công khai sáng kinh thành Thăng Long. Nằm bên bờ hồ, tháp Hòa Phong là di tích cổ còn sót lại của chùa Báo Ân sau khi đã bị người Pháp phá hủy để lấy đất xây bưu điện. Xung quanh hồ có hằng hà sa số món đồ mà các bạn có thể mua về để làm quà cho bạn bè cũng như người thân chẳng hạn như đồ thủ công, những món quà nhỏ xinh xắn, quần áo, giày dép, các món đặc sản ở Hà Nội như bánh cốm, ô mai… Phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Đường, chợ Đồng Xuân… là một số địa chỉ uy tín và chất lượng để các bạn thỏa sức mua sắm. Theo kinh nghiệm của nhiều người thì các bạn nên đi mua sắm vào buổi chiều vì các cửa hàng ở đây rất kiêng việc khách hàng đến vào buổi sáng để hỏi đồ nhưng lại không mua gì.
Hà Nội 2163 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhắc đến lịch sử của Hà Nội 36 phố phường hay phố cổ Hà Nội, có lẽ phải ngược lại khoảng thời gian từ thời Lý – Trần, khi khu dân cư sinh hoạt buôn bán này bắt đầu hình thành, dân cư từ khắp các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập lại và trở thành khu vực sầm uất nhất kinh thành thời ấy. Không những vậy, khu đô thị này còn tập trung nhiều hoạt động tiểu thủ công nghiệp, buôn bán giao thương để mà từ đó hình thành nên cái tên “Hàng”, cách gọi ám chỉ những phố nghề đặc trưng, mang đậm nét truyền thống. Trải qua bao thăng trầm của đất thủ đô, khu phố ấy vẫn đi cùng năm tháng, trường tồn cho đến tận bây giờ, bảo tồn và gìn giữ để trở thành phố cổ Hà Nội trong lòng bao người con đất Việt. Về mặt diện tích, theo quy định của Bộ Xây dựng, phạm vi chính thức của khu phố cổ Hà Nội được xác định như sau: phía Bắc là phố Hàng Đậu; phía Tây là phố Phùng Hưng; ở phía Nam là các phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng; còn phía Đông đường Trần Quang Khải và đường Trần Nhật Duật. Hà Nội 36 phố phường, cái tên đã đi vào tiềm thức của nhiều người với những nét giản dị mộc mạc nhất từ những cái tên như Hàng Mắm, Hàng Nón, Hàng Đường, Hàng Muối… đại diện cho mặt hàng chủ yếu được cái tiểu thương nơi đây trao đổi buôn bán. Phố cổ mang trong mình một nét rất riêng về đô thị, nơi phồn hoa đông đúc, lúc nào cũng tấp nập người nhưng lại vẫn giữ được những giá trị văn hóa truyền thống từ ngàn đời xưa của đất kinh kì. Mỗi con phố đều tập trung những người thợ từ các làng nghề có tiếng quanh kinh thành Thăng Long xưa, biến mỗi con phố nơi đây thành một làng nghề thu nhỏ giữa lòng Hà Nội. Kiến trúc lại là một nét đặc sắc khác làm nên chất riêng của phố cổ, với lối cấu trúc nhà ống, mái ngói nghiêng cùng mặt tiền là các cửa hiệu chuyên để kinh doanh buôn bán, được xây dựng chủ yếu từ những ngày thế kỉ 18, 19. Những ngôi nhà thoạt nhìn thì lụp xụp nhỏ bé, nhưng lại được con người sắp xếp vô cùng khéo léo mà hợp lý, vẫn phục vụ đầy đủ được nhu cầu đời sống của người dân nơi đây. Phố cổ Hà Nội đẹp với những hàng quán nhỏ ven đường, dù không phải nhà hàng sang trọng nhưng hương vị lại đậm đà níu chân người lữ khách, có đi rồi cũng mãi không quên. Là một buổi ngồi bên hồ Gươm hóng gió, ăn que kem Thủy Tạ, nhìn dòng người qua lại, hay lên phố mà không thưởng thức kem Tràng Tiền thì quả là điều thiếu sót. Hà Nội cũ với những gánh hàng rong chập chùng, len lỏi qua từng con phố với những món ăn bình dị mà dân dã như bánh rán, trứng vịt lộn, hay chỉ đơn giản là cốm, món quà quê nức lòng người con Tràng An có thể làm say lòng bất kì thực khách khó tính nào. Ẩm thực phố cổ gắn liền với những món ăn truyền thống như bún chả, phở, bún cá, bún đậu mắm tôm, bún ốc, bún thang,…của quán nhỏ ven đường, hay trong những căn nhà cổ đã có đến hàng chục năm tuổi. “Hà Nội 36 phố phường” không chỉ nổi tiếng là nơi ăn chơi bậc nhất Hà Thành, mà còn lưu giữ biết bao giá trị lịch sử, văn hóa của hơn một ngàn năm văn hiến. Bạn nhất định không được bỏ qua điểm đến này khi về thăm Hà Nội nhé.
Hà Nội 2246 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Văn Miếu nằm ở khu vực quận Đống Đa, Hà Nội, ngay giữa 4 phố chính gồm Nguyễn Thái Học, Tôn Đức Thắng, Văn Miếu và Quốc Tử Giám. Du lịch đến với Hà Nội ngàn năm văn hiến thì đây chắc chắn là địa điểm mà bạn nên ghé thăm. Nếu xuất phát từ Hồ Gươm, các bạn đi theo đường Lê Thái Tổ, rẽ phải vào đường Tràng Thi, đi về phía đường Cửa Nam, Nguyễn Khuyến rồi rẽ trái vào đường Văn Miếu là đến. Vì đường Hà Nội có rất nhiều đường một chiều, đặc biệt là xung quanh khu Văn Miếu nên các bạn nhớ để ý để tránh phạm luật giao thông. Văn Miếu được xây dựng năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, là nơi thờ Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối. Đến năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập thêm Quốc Tử Giám bên cạnh là trường đại học dành riêng cho con vua và các gia đình quý tộc. Đến thời vua Trần Thái Tông, Quốc Tử Giám được đổi tên thành Quốc học viện và thu nhận cả con cái nhà thường dân có sức học xuất sắc. Sang thời hậu Lê, đời vua Lê Thánh Tông bắt đầu cho dựng bia của những người thi đỗ tiến sĩ. Tới thời Nguyễn, Quốc Tử Giám được lập Huế. Văn miếu Thăng Long được sửa sang lại chỉ còn là Văn Miếu của trấn Bắc Thành, sau đổi thành Văn Miếu Hà Nội. Quần thể di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám hiện tại nằm trong khuôn viên rộng 54331 m2, bao gồm nhiều công trình kiến trúc nhỏ khác nhau. Bao bọc khuôn viên là những bức gạch vồ. Trải qua nhiều tu sửa, quần thể di tích này bao gồm Hồ Văn, Văn Miếu môn, Đại Trung môn, Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang, bia tiến sĩ, Đại Thành môn, nhà Thái Học. Nhà giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người. Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn. Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn miếu thờ Khổng Tử ở Trung Quốc, tuy nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc. Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh. Ngoài cổng chính có tứ trụ, hai bên tả hữu có bia “Hạ Mã”, xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh. Cổng Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ với nhau. Cổng chính Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch. Bên trong cũng có những bức tường ngăn ra làm 5 khu, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng qua lại nhau. Khu thứ nhất. Bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn. Khu thứ hai. Từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn các. Khuê Văn các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85cm x 85cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng. Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Hai bên phải trái Khuê Văn các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ. Khuê Văn các ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội. Khu thứ ba. Gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng rùa đá. Hiện còn 82 tấm bia của các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Đó là những di vật quý nhất của khu di tích. Khu thứ tư. Là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa nhà ngoài là Bái đường, Tòa trong là Thượng cung. Đây là khu vực thờ Khổng Tử và Tứ Phối (Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử). Khu thứ năm. Đây là khu nhà Thái Học. Thời Nguyễn trường Quốc Tử Giám ở Hà Nội bị bãi bỏ, nhà thái học bị đổi làm nhà Khải thánh, thờ thân phụ, thân mẫu của Khổng Tử. Tuy nhiên khu nhà này đã bị phá hủy trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Khu nhà Thái Học mới được thành phố Hà Nội xây dựng lại năm 1999. Trong khu thứ năm này còn có nhà Tiền đường – Hậu Đường, là nơi thờ các vị vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông và tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An. Những lưu ý khi thăm quan Văn Miếu Quốc Tử Giám. Đầu tiên, Tôn trọng di tích, chấp hành quy định của đơn vị quản lý di tích. Không xâm hại đến các hiện vật, cảnh quan di tích. Không xoa đầu rùa, viết, vẽ, đứng, ngồi lên bia Tiến sĩ… Thứ hai, Trang phục khi tới Văn Miếu nên sạch sẽ, gọn gàng. Không nên mặc váy hoặc quần quá ngắn, trang phục hở hang hay trang phục trong nhà. Không hút thuốc, đội nón, đội mũ trong khu vực Điện thờ, nhà trưng bày… Cuối cùng, Thực hiện nếp sống văn minh nơi thờ tự: Không có hành vi thiếu văn hóa, nói tục, gây mất trật tự an ninh; Có thái độ đúng mực khi hành lễ, mỗi người chỉ thắp một nén hương; Dâng lễ, thắp hương đúng nơi quy định.
Hà Nội 2361 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Là một trong những công trình kiến trúc Thiên Chúa giáo được xây dựng sớm nhất Hà Nội, Nhà thờ lớn đã trải qua biết bao thăng trầm lịch sử của nước nhà, thấm đẫm cuộc đời cũng như tâm hồn của nhiều người dân Hà thành. Khu đất xây dựng nhà thờ vốn là nơi chùa Báo Thiên tọa lạc, tồn tại từ thời Lý. Đến cuối thế kỷ 18, chùa Báo Thiên bị phá hủy và trở thành khu chợ nhỏ trước khi nhà thờ đầu tiên được xây dựng. Từ năm 1884 – 1888, Giáo hội công giáo tiến hành xây dựng nhà thờ bằng gạch trên nền móng nhà thờ tạm bằng gỗ ban đầu. Đây chính là nhà thờ lớn nhất được xây dựng ở Hà Nội, được tôn phong là “ Nhà thờ chính tòa kính Thánh Giuse”. Nhà thờ được khánh vào lễ Giáng sinh năm 1887. Đến năm 1890, phố Nhà Chung được mở rộng và Nhà thờ lớn trở thành địa điểm trung tâm tấp nập người qua lại. Từ hồ Hoàn Kiếm men theo hướng phố Nhà Chung, du khách có thể dễ dàng tìm đường đến nhà thờ. Nổi bật giữa khu phố với quảng trường rộng lớn với tượng đài Đức mẹ bồng chúa hài đồng. Khách tham quan sẽ phải đi vào nhà thờ qua cổng bên. Được mệnh danh là nhà thờ lâu đời và có kiến trúc đẹp nhất Hà Nội, Nhà thờ lớn đã được thiết kế công phủ, tinh xảo bởi bàn tay cũng những nghệ nhân tài hoa. Với phong cách thiết kế Châu Âu, Gothic, Nhà thờ lớn được xây dựng theo mô típ của công trình Nhà thờ Đức Bà Paris. Nhà thờ có chiều dài tầm 65m, chiều rộng 21m và 2 tháp chuông cao gần 32m được cố định bởi những trụ đá to lớn. Cây thánh giá được thiết kế tinh xảo bằng đá thu hút ánh nhìn của mọi người ngay từ lúc bước chân vào. Toàn bộ sàn gạch được tạo ra từ gạch đất nung, bốn bề bức trường trát bằng giấy bổi tạo nên không gian cổ kính, vô cùng đẹp mắt. Vì đã có tuổi đời từ trăm năm, bức tường nhà thờ bám phủ rêu phong tạo nên khung cảnh hoang sơ, kì bí. Các ô cửa chính và cửa đều mang hình vòm cuốn nhọn, đặc trưng phong cách Gothic. Mái vòm uốn cong rộng lớn hướng lên trên tạo ra một không gian cao vời vợi. Điểm nhấn ở giữa chính là cánh cửa sổ tròn hình hoa, tinh xảo. Với màu sắc trầm, chủ đạo theo phong cách Châu Âu, xen lẫn nhiều họa tiết mang hình ảnh Việt Nam, làm cho hai bên lối đi của nhà thờ hấp dẫn thu hút khách du lịch ngắm nghía, chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo. Nhà thờ được chia làm 3 gian: sảnh đón tiếp – nơi dành cho ca đoàn và các nhạc công, khu vực hành lễ và cung thánh cử hành nghi lễ. Ngay trong thánh đường ẩn chứa 3 ngôi mộ của Hồng y Trịnh Như Khuê, Hồng y Phạm Đình Tụng và Hồng ý Trịnh Văn Căn. Ở giữa là tượng Đức Mẹ, bao trùm lên toàn bộ khung cảnh nhà thờ, tạo nên cảm giác ấm áp lạ thường, như người mẹ đang dang trọn vòng tay ôm ấp những đứa con thơ. Nhà thờ thường có 2 thánh lễ vào ngày thường và 7 thánh lễ vào chủ nhật. Ngày 19 tháng 3 hằng năm, nơi đây sẽ tổ chức lễ rước thánh Quan thầy của Tổng giáo phận Hà Nội. Trong những hôm hành lễ, người dân thường nghe tiếng nhạc vang lên cùng những bài cầu kinh trong Nhà thờ lớn. Đây cũng là nơi diễn ra các buổi xá tội dành cho giáo đoàn. Như những nhà thờ khác, lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh là 2 lễ lớn nhất ở nhà thờ, thường tổ chức những buổi hành lễ linh đình, tấp nập người công giáo đến cử hành buổi lễ. Không chỉ là địa điểm tôn giáo nổi tiếng của thủ đô, Nhà thờ lớn Hà Nội còn là điểm đến thu hút rất đông các bạn trẻ và du khách tới tham quan, chụp ảnh. Đặc biệt vào dịp Noel là lúc Nhà thờ lớn được trang hoàng lộng lẫy nhất với những cây thông được trang trí cầu kì và ánh đèn lung linh đa màu sắc. Tuy nhiên bạn sẽ cần phải tới từ sớm bởi chỉ chập choạng tối là nơi đây đã đông nghẹt người. Nhắc đến nhà thờ Lớn thì dĩ nhiên không thể không kể tới “đặc sản” “trà chanh chém gió” ở đây. Những cốc trà thoảng hương hoa nhài, điểm thêm một vài lát chanh tươi với vị chua, ngọt, chan chát đã trở thành thức uống quen thuộc với không ít người Hà Nội. Chỉ cần một chiếc ghế nhựa bên vỉa hè, nhấp ngụm trà, trò chuyện với bạn bè hay nhìn ngắm dòng xe cộ qua lại. Có lẽ từ những điều giản dị như vậy mà trà chanh Nhà thờ luôn giữ được cái thú vị rất riêng của người Hà Nội. Ngoài ra sẽ thật là thiếu sót nếu như đến Nhà thờ lớn Hà Nội mà không thưởng thức hết những món ăn ở đây. Từ các món Á, Âu cho tới những món ăn vặt Hà Nội như nem nướng, bánh gối, cháo quẩy… tất cả đều sẽ được tìm thấy chỉ trong vài bước chân quanh Nhà thờ Lớn.
Hà Nội 2887 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Chùa Trấn Quốc ban đầu có tên là chùa Khai Quốc, xây dựng vào năm 541 thuộc thời Tiền Lý. Lúc đó, chùa nằm gần bờ sông Hồng bởi vậy khi đê sạt lở vào năm 1615 (đời vua Lê Trung Hưng), chùa được di dời vào phía trong đê Yên Phụ khu gò đất Kim Ngưu. Sau đó, trong khoảng thế kỉ 17, chúa Trịnh cho đắp đê Cố Ngự (nay là đường Thanh Niên) để nối với đảo Kim Ngưu. Chùa đổi tên thành chùa Trấn Quốc vào đời vua Lê Hy Tông (1681 – 1705) với ý nghĩa mong muốn đây sẽ là nơi giúp dân xua đi thiên tai, đem lại cuộc sống bình yên cho toàn dân. Và cái tên đó được sử dụng cho tới tận ngày nay. Xưa kia, chùa Trấn Quốc là trung tâm Phật giáo của kinh thành Thăng Long. Các vua Lý, Trần vẫn thường hay vãn cảnh và ngự giá cúng lễ vào các dịp lễ, Tết tại chùa bởi vậy mà có nhiều cung điện đã được xây dựng phục vụ việc nghỉ ngơi của vua: cung Thúy Hoa, điện Hàm Nguyên. Chùa tọa lạc trên một hòn đảo phía Đông của Hồ Tây, nép mình trầm mặc trên con đường Thanh Niên tấp nập. Là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ lâu, chùa Trấn Quốc đã trải qua rất nhiều lần trùng tu, diện mạo có phần thay đổi, quy mô và kiến trúc của chùa hiện giờ là kết quả của một đợt trùng tu lớn năm 1815. Tổng diện tích chùa khoảng hơn 3000m2, bao gồm vườn tháp, nhà tổ và thượng điện. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông với kết cấu và kiến trúc theo nguyên tắc khắt khe của Phật Giáo gồm 3 ngôi chính: Tiền đường, nhà thiêu hương và Thượng điện nối với nhau thành hình chữ Công (工). Nhà Tiền đường có hướng về phía Tây, phía sau có nhà Tam bảo. Hai dãy hành lang nằm hai bên nhà thiêu hương và Thượng điện. Phía sau Thượng điện là gác chuông nằm trên trục sảnh đường chính với kiến trúc ba gian có mái chồng diêm. Nhà tổ nằm bên trái Thượng điện và bên trái là nhà bia hiện còn lưu giữ 14 tấm bia mang nhiều giá trị lịch sử và văn hóa. Năm 1998, ngôi Bảo Tháp lục độ đài sen được xây dựng, đến năm 2003 thì hoàn thành tạo thành khu vườn tháp của chùa. Ngôi Bảo Tháp cao 15m, gồm 11 tầng. Ở mỗi tầng tháp có đặt một pho tượng Phật A Di Đà bằng đá quý màu trắng trong mỗi ô cửa hình vòm. Đặc biệt, trên đỉnh có một tháp sen 9 tầng (Cửu phẩm liên hoa) được tạc bằng đá quý, tạo nên vẻ đẹp uy nghi, linh thiêng nhưng lại rất mềm mại. Bảo Tháp được dựng đối xứng với cây bồ đề do Tổng thống Ấn Độ tặng năm 1959 trong chuyến đến thăm thủ đô Hà Nội của ông. Cây bồ đề này được chiết từ cây đại bồ Đạo Tràng – nơi mà Đức Phật Thích Ca ngồi hành đạo cách đây hơn 25 thế kỷ. Hiện nay, chùa còn lưu giữ nhiều pho tượng Phật và Bồ Tát có giá trị lớn được đặt chủ yếu ở Thượng điện. Trong đó nổi bật nhất là bức tượng Phật Thích Ca nhập Niết bàn được làm từ gỗ, sơn son thiếp vàng, là bức tượng Niết bàn đẹp ở Việt Nam. Qua bao thăng trầm của thời gian, chùa Trấn Quốc vẫn nằm đó uy nghi, mang nét yên bình mà cổ kính giữa lòng Hà Nội tấp nập. Hàng năm, chùa thu hút rất đông phật tử thập phương, du khách trong và ngoài nước đến dâng hương, lễ phật cũng như vãn cảnh chùa.
Hà Nội 2142 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Tọa lạc tại vị trí trung tâm số 1 phố Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, nhà hát lớn Hà Nội là địa điểm được đông đảo du khách ưa thích ghé thăm mỗi khi có dịp đến với thủ đô. Đây là một công trình kiến trúc được xây dựng bởi người Pháp vào những năm 1901 – 1911 (trong khoảng thời gian đô hộ Việt Nam), lúc bấy giờ nhà hát là nơi chuyên trình diễn các tiết mục nghệ thuật cổ điển xa xỉ như Opera, nhạc thính phòng, kịch nói… cho tầng lớp quan lại hay giới thượng lưu Pháp và một số tư sản Việt. Được lấy cảm hứng từ các công trình kiến trúc Châu Âu nổi tiếng như nhà hát Opera Paris, lâu đài Tuylory… nên “hồn” Châu Âu thấm đượm nơi đây. Một thế kỷ trôi qua với biết bao thăng trầm biến cố, nhà hát lớn Hà Nội đã xuống cấp rất nhiều và gần đây mới được tu sửa lại, thay một diện mạo một sức sống mới. Tạm biệt sắc vàng nhạt nguyên tác, giờ đây nhà hát khoác lên mình lớp áo vàng đậm pha thêm trắng tạo vẻ uy nghi, mỹ lệ. Ngay từ bên ngoài nhà hát chúng ta đã có thể cảm nhận được “hơi thở” Châu Âu với những đường nét họa tiết tinh tế, chạm khắc hoa văn cổ điển. Bước vào sảnh chính, du khách không khỏi cảm thấy choáng ngợp trước sự lộng lẫy hào nhoáng nơi đây. Cả gian phòng được lát đá trắng nhập khẩu từ Italia, trải thảm đỏ ở lối đi giữa tạo cảm giác sang trọng quý phái như cung điện hoàng gia Anh. Phía trần và xung quanh tường được trang hoàng với hệ thống đèn chùm nhỏ mà đồng hay mạ vàng theo hơi hướng cổ điển vintage trông rất quý phái. Tiếp đến là phòng khán giả nơi diễn ra những hoạt động biểu diễn nghệ thuật cho khán giả hiện nay. Không gian nơi đây được thiết kế tinh tế với một sân khấu ở chính giữa và khán đài được thiết kế theo hình vòng cung được lấy cảm hứng từ đấu trường La Mã ôm lấy sân khấu giúp cho tầm nhìn khán giả không bị che lấp và chất lượng âm thanh có thể truyền tải tốt nhất. Với 598 ghế ngồi được phân bố hợp lý cho 3 tầng tạo nên không gian thưởng thức thoải mái nhất. Cuối cùng là phòng gương, nơi tổ chức các nghi lễ quan trọng hay đón tiếp các nhân vật cấp cao…Không gian nơi đây ngập tràn vẻ cổ điển từ thiết kế kết hợp nhiều ô cửa lớn kết hợp kỹ thuật Mozaic, cho đến những cây đèn treo, đèn trùm được mạ vàng hoặc đồng… tất cả đều toát lên vẻ sang trọng, lộng lẫy. Ngoài ra, bên trong nhà hát lớn Hà Nội còn được bố trí một vài công trình phụ khác như: phòng quản trị, 18 phòng hóa trang, 2 phòng luyện thanh, thư viện và phòng họp. Khi đến với nhà hát, du khách có thể ghé mua vài món đồ lưu niệm nhỏ tại phòng trưng bày và bán đồ lưu niệm. Mới đây, nhà hát lớn Hà Nội chính thức công bố mở cửa cho du khách tham quan với mức phí 400.000đ/người, học sinh được giảm một nửa. Ngoài ra, bạn có thể mua vé chương trình tại nhà hát với mức giá từ 300.000đ – 1.000.00đ/người và tranh thủ đi thăm quan một vài công trình kiến trúc đẹp nơi đây.
Hà Nội 2321 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Nhà tù Hỏa Lò nằm ở số 1 phố Hỏa Lò, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Khu di tích vẫn còn trường tồn với thời gian cho đến tận ngày nay, là một minh chứng rõ nét cho cả một thời kì lịch sử khổ cực mà gian lao, biểu tượng cho tinh thần bất khuất, kiên cường của những người con Việt Nam yêu nước. Nhà tù Hỏa Lò, hay còn gọi là ngục Hỏa Lò, xưa có tên tiếng Pháp là Maison Centrale, có nghĩa là đề lao trung ương, còn tên tiếng việt là Ngục thất Hà Nội, là một nhà tù cũ nằm trên phố Hỏa Lò, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Nhà tù này được Pháp xây dựng năm 1896 ở khu vực ngày đó còn là ngoại vi thành phố, với mục đích làm ngục thất trung ương cho cả hai xứ Trung cũng như là Bắc Kỳ, giam giữ chủ yếu là các nhà tù chính trị và các nhà ái quốc chống chính quyền thực dân. Dưới thời Pháp thuộc, ngục Hỏa Lò được thiết kế xây dựng với cấu trúc bao gồm những bức tường đá cao 4m, dày 0,5m được gia cố thêm dây thép điện. Cả khu vực ngục tù được chia thành 4 khu: A,B,C,D, trong đó: Khu A, B: dành cho các phạm nhân đang được điều tra, phạm nhân không quan trọng hoặc phạm nhân vi phạm vào kỉ cương của nhà tù. Khu C: dành cho tù nhân Pháp hoặc ngoại quốc. Khu D: dành cho các phạm nhân đang chờ thụ án tử hình. Tổng diện tích của cả khu nhà tù trước kia rộng lên đến hơn 12.000m2. Tuy nhiên, ngày nay chỉ còn 2.434m2 là được giữ lại, bảo tồn để trở thành khu di tích, phục vụ cho mục đích tham quan du lịch của những ai muốn đến và tận mắt chứng kiến khung cảnh của nhà tù thực dân trông như thế nào. Được mệnh danh là chốn “địa ngục trần gian”, là nhà tù đáng sợ nhất Đông Nam Á, trong suốt thời gian hoạt động của mình, nhà tù Hỏa Lò đã trở thành nơi giam giữ của biết bao thế hệ chiến sĩ, nhà hoạt động cách mạng Việt Nam với kiến trúc trại giam được thiết kế với các hình thức tra tấn, ép cung vô cùng dã man, tàn nhẫn mà điển hình nhất là cỗ máy chém, cố máy đã đưa nhà tù ghi danh vào top 10 nhà tù khét tiếng nhất thế giới. Sau khi giải phóng thủ đô năm 1954, nhà tù Hỏa Lò đã từng là nơi được sử dụng để giam giữ tù binh phi công Mỹ cho đến năm 1973. Với vai trò lịch sử của mình, nhà tù Hỏa Lò hiện tại trở thành địa điểm tham quan thú vị ở Hà Nội hấp dẫn rất đông du khách trong và ngoài nước. Nơi đây mở cửa cho tất cả những ai có nhu cầu, mong muốn đến tham quan với mức giá vé vô cùng dễ chịu, 30.000 VND/người, giảm 50% giá cho học sinh, sinh viên, người khuyết tật, người cao tuổi hay những ai thuộc vào diện chính sách xã hội. Ngoài ra, các đối tượng như trẻ em dưới 15 tuổi, người khuyết tật đặc biệt nặng hay người có công với Cách mạng sẽ được miễn hoàn toàn giá vé.
Hà Nội 2648 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh thành Thăng Long – Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội. Di chỉ khảo cổ này là minh chứng sống động cho nền văn minh châu thổ sông Hồng trong suốt 13 thế kỷ: bắt đầu từ thời tiền Thăng Long vào khoảng thế kỷ VII, đi qua thời Đinh và tiền Lê, phát triển mạnh dưới thời Lý, Trần, hậu Lê, đến triều Nguyễn và tồn tại mãi đến ngày nay. Dấu son Hoàng thành Thăng Long được hình thành vào năm 1010, khi vua Lý Thái Tổ ban chiếu dời đô từ Hoa Lư đến Đại La và cho xây dựng Kinh thành cũng như hàng loạt cung – điện, trong đó có Hoàng thành Thăng Long. Theo sách sử và tài liệu khảo cổ, Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo mô hình tam trùng thành quách, bao gồm: vòng ngoài cùng là La thành hay Kinh thành – nơi sinh sống của cư dân, vòng ở giữa là Hoàng thành – khu triều chính, nơi ở và làm việc của các quan lại trong triều, và vòng trong cùng là Tử Cấm thành hay Long Phượng thành – nơi dành cho vua, hoàng hậu, và các thành viên hoàng tộc khác. Những gì chúng ta còn thấy ngày nay ở thủ đô Hà Nội là Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long với diện tích khoảng 20ha (trên tổng diện tích 140ha của Hoàng thành), bao gồm hai khu vực: Khu khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và Khu di tích Thành cổ Hà Nội. Ngoại trừ Bắc Môn và Kỳ Đài, những công trình còn sót lại chỉ là phục dựng và các di tích khảo cổ được tìm thấy trong suốt nhiều năm. Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long có địa chỉ tại 19C Hoàng Diệu, phường Điện Biên, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Thực tế, toàn bộ cụm di tích được bao bọc bởi bốn con đường: phía Bắc là đường Phan Đình Phùng, phía Nam là đường Điện Biên Phủ, phía Đông là đường Nguyễn Tri Phương và phía Tây là đường Hoàng Diệu, thuộc địa bàn phường Điện Biên và Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Điểm dừng chân đầu tiên trong cụm di tích Hoàng thành đó là Kỳ Đài, hay thường được gọi là Cột cờ Hà Nội. Đây là di tích có kết cấu dạng tháp, được xây dựng dưới triều Nguyễn từ năm 1805 đến 1812, cùng thời với Hoàng thành Thăng Long. Kiến trúc cột cờ bao gồm ba tầng đế, thân cột, và đài vọng canh, với tổng chiều cao khoảng 33,4m. Bên trong công trình có thiết kế cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên đỉnh - nơi bạn có thể ngắm nhìn toàn cảnh Hoàng thành Thăng Long. Công trình Cột cờ Hà Nội vẫn đứng vững chãi, kiên cố đến ngày nay, và trở thành một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội. Rời Cột cờ Hà Nội, bạn đi thêm một đoạn nữa sẽ đến Đoan Môn, cổng chính dẫn vào Hoàng thành. Đoan Môn đã xuất hiện từ thời Lý, nhưng kiến trúc mà chúng ta thấy ngày nay là do nhà Lê xây dựng vào thế kỷ XV và nhà Nguyễn tu bổ vào thế kỷ XIX. Đoan Môn là tường thành phía Nam, được xây theo lối kiến trúc cuốn vòm cân xứng gần như tuyệt đối qua “trục thần đạo”, với 5 cổng thành: cổng giữa to nhất dành cho vua, 4 cổng còn lại dành cho quan lại, hoàng thân, quốc thích. Đây là địa điểm được check-in nhiều nhất bởi vẻ hoành tráng, uy nghi của công trình. Bắt đầu từ Đoan Môn, bạn băng qua một khoảng sân lớn gọi là Long Trì, rồi đến Điện Kính Thiên – hạt nhân chính trong tổng thể di tích Hoàng thành. Điện Kính Thiên được xây vào năm 1428, là nơi vua Lê Thái Tổ đăng cơ, về sau trở thành nơi cử hành các nghi lễ long trọng của triều đình, các buổi thiết triều và đón tiếp sứ giả nước ngoài. Hiện nay, công trình này chỉ còn giữ lại được phần nền và hai bậc thềm rồng đá. Tuy vậy, những dấu tích tìm thấy nơi đây cùng đôi rồng chầu đã phần nào gợi lại nét nguy nga, tráng lệ của Điện Kính Thiên năm xưa. Hậu Lâu, hay còn được gọi là Tĩnh Bắc Lâu, là tòa lầu được xây phía sau Điện Kính Thiên, khi xưa là chốn hậu cung – nơi sinh hoạt của hoàng hậu, công chúa, và các cung tần, mỹ nữ. Hậu Lâu xuất hiện từ sau đời hậu Lê, được xây theo kiến trúc hình hộp với ba tầng, kết hợp giữa kiến trúc cổ truyền Việt Nam và Pháp. Nét đặc trưng nhất của Hậu Lâu là độ dày của các bức tường, khiến các phòng luôn mát mẻ vào mùa hè và ấm áp vào mùa đông. Cuối thế kỉ 19, Hậu Lâu bị hư hỏng nặng, và được người Pháp cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc Môn, hay Cửa Bắc, là một trong năm cửa của thành cổ Hà Nội thuộc thời Nguyễn, và cũng là cửa thành duy nhất còn sót lại. Cửa Bắc được xây dựng xong vào năm 1805, theo lối vọng lâu: phía trên là lầu, phía dưới là thành. Trên lầu hiện là nơi thờ hai vị Tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu – người đã cùng dân Hà Nội chiến đấu bảo vệ thành đến chết. Cổng hành cung là nơi canh gác của quân lính, nhằm giữ an toàn cho vua và hoàng tộc. Mỗi cổng hành cung là một công trình có thiết kế cầu kỳ, vững chãi, làm tôn vẻ tráng lệ của cung điện. Trong Khu di tích Thành cổ Hà Nội hiện còn tồn tại tám cổng hành cung như thế. Chính nhờ những cổng hành cung này mà công việc xác định tọa độ các cung điện và lớp tường thành được chính xác hơn. Ngoài các công trình khảo cổ, trong Khu di tích Thành cổ Hà Nội còn có hệ thống các công trình kiến trúc Pháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, nay được trưng dụng làm trụ sở và cơ quan của Nhà nước Việt Nam.
Hà Nội 2372 lượt xem
Từ tháng 1 đến tháng 12
Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội với diện tích quy hoạch bảo tồn vùng lõi là 18,395 ha (bao gồm Khu di tích thành cổ Hà Nội và Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu) và diện tích vùng đệm là 108ha. Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lập nên vương triều Lý. Năm 1010, Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh đô mới là Thăng Long và xây dựng nơi đây thành một trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa lớn nhất của đất nước. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc và Lê Trung Hưng, thành Thăng Long luôn giữ vị trí “Quốc đô”, là nơi ở và làm việc của Vua và Hoàng tộc. Khu vực này cũng còn là nơi cử hành các nghi lễ quan trọng của đất nước. Sau khi nhà Nguyễn định đô ở Huế (1802), vai trò kinh đô của Thăng Long mới bị giải thể… Từ sau năm 1954, khu vực thành Thăng Long trở thành trụ sở làm việc của Bộ Quốc phòng. Chính tại khu vực này, nhiều quyết định quan trọng của Đảng và Nhà nước đã được ra đời, góp phần tạo ra những thắng lợi lớn trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Trải qua thời gian và những biến cố của lịch sử, thành Thăng Long đã có nhiều thay đổi, biến dạng…, nhưng đến nay vẫn còn lưu giữ được một số di tích lịch sử và khảo cổ học, tiêu biểu như: Kỳ đài (Cột cờ Hà Nội): xây dựng vào năm 1812, dưới thời vua Gia Long, cao 33,4m, gồm ba tầng: đế, thân cột và vọng canh. Đoan môn: là cửa thành phía Nam, xây theo kiểu vòm cuốn. Đoan môn được bố cục theo chiều ngang, gồm cửa chính giữa dành riêng cho vua, hai bên có 4 cửa nhỏ hơn, dành cho các quan và hoàng tộc. Điện Kính thiên: nằm ở vị trí trung tâm của hoàng thành (thời Lê Sơ), được xây dựng năm 1428, ngay trên nền cũ của điện Càn Nguyên thời Lý (sau đổi tên là điện Thiên An). Năm 1886, điện này đã bị thực dân Pháp phá để xây dựng Sở Chỉ huy Pháo binh quân đội Pháp. Hiện nay, chỉ còn lại dấu tích của nền móng của điện Kính thiên. Đặc biệt, khu vực này còn lưu giữ được hai bậc thềm rồng bằng đá, có niên đại thế kỷ XV. Hậu lâu (Lầu Công chúa): xây dựng năm 1821, được sử dụng làm nơi nghỉ ngơi của các cung nữ trong đoàn hộ tống các Vua nhà Nguyễn khi xa giá ra Bắc. Cuối thế kỷ XIX, Hậu lâu bị hư hỏng nặng, thực dân Pháp đã cho cải tạo, xây dựng lại như hiện nay. Chính Bắc môn (Cửa Bắc): là cổng thành phía Bắc, được xây dựng năm 1805, gồm hai tầng, tám mái, với đầu đao cong, theo kiểu truyền thống. Tường bao và 8 cổng hành cung thời Nguyễn: năm 1805, nhà Nguyễn đã cho xây dựng tường bao từ cửa Đoan môn quanh nội điện, làm hành cung để vua làm việc và nghỉ ngơi mỗi khi Bắc tuần. Hiện nay, trong khu thành cổ còn 8 cổng thành cùng với hệ thống tường bao xung quanh hành cung bằng gạch vồ. Di tích nhà và hầm D67: được xây dựng vào năm 1967, trong khu A. Đây là nơi Bộ Chính trị, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã đưa ra nhiều quyết định mang tính lịch sử, đánh dấu những mốc son của cách mạng Việt Nam: Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, chiến dịch năm 1972, Cuộc tổng tiến công năm 1975 và đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh… Những công trình kiến trúc Pháp: được xây dựng từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX theo kiểu Vauban, bao gồm tòa nhà Sở Chỉ huy Pháo binh Quân đội Pháp; một tòa nhà 2 tầng, xây dựng năm 1897, nay dùng làm trụ sở của Cục Tác chiến; hai tòa nhà một tầng, xây dựng năm 1897. Phía Đông của tòa nhà Cục Tác chiến có một nhà khách, xây dựng năm 1930. Cây xanh trong khu di tích: được trồng với mật độ dày, đa dạng về chủng loại, đã góp phần tạo ra môi trường trong lành và cảnh quan hài hòa cho khu di tích. Di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu: nằm cách nền điện Kính Thiên khoảng 100m về phía Tây, có diện tích 4,530ha, bắt đầu khai quật từ tháng 12 năm 2002, được phân định làm 4 khu (A, B, C, D). Khi tiến hành khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích nền móng của các công trình kiến trúc cổ thuộc Hoàng thành Thăng Long cùng nhiều hiện vật có giá trị, như vật liệu trang trí kiến trúc bằng đất nung, cột gỗ, đồ gốm sứ của các triều đại phong kiến Việt Nam và nhiều đồ dùng, vật dụng của nước ngoài, như các loại đồ sứ của Tây Á, Trung Quốc, Nhật Bản… Thành cổ Thăng Long - Hà Nội là di tích lịch sử và khảo cổ tiêu biểu, là bằng chứng vật chất phản ánh trình độ kỹ thuật cao, chứa đựng các giá trị về lịch sử, kiến trúc và nghệ thuật. Đồng thời, phản ánh sự giao thoa văn hóa với các nước trong khu vực và trên thế giới trong một quá trình lịch sử lâu dài, thể hiện qua rất nhiều hiện vật lịch sử, công trình kiến trúc, cảnh quan đô thị mang bề dày hàng ngàn năm lịch sử. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và khảo cổ Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di tích quốc gia đặc biệt ngày 12/8/2009. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hà Nội 2514 lượt xem
Cụm di tích Đình, chùa Đại Lan ở thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII. Đình Đại Lan, nằm ở sát bên trái tòa tam bảo của ngôi chùa làng, có kiến trúc hình chữ “Đinh” gồm 3 gian tiền đình và 2 gian hậu cung. Tòa Đại bái đình Đại Lan được chia làm 3 gian 2 dĩ với 4 mái đao cong, bờ nóc đắp lưỡng long chầu hổ phù đội mặt trời cách điệu, hai đầu bờ nóc là hai con rồng ngậm bờ nóc, các mái đao được đắp đầu rồng cong hướng vào đình. Vào bên trong các bộ vì đỡ mái được làm theo kiểu thượng giá chiêng rường nách, hạ cốn, bẩy hiên, bẩy hậu trên mặt bằng bốn hàng chân cột. Trang trí trên kiến trúc tại đình Đại Lan chủ yếu tập trung vào các đầu dư, cốn chạm rồng, tứ linh, tứ quý là các đề tài quen thuộc trong kiến trúc tín ngưỡng dân gian truyền thống. Đình Đại Lan thờ 4 vị Thành hoàng làng (3 vị thời Hùng Vương là Linh Hồ, Minh Châu và Chà Lục có công dẹp giặc và Nguyễn Như Đổ, 1 đại thần nhà Lê, làm quan tới chức Thượng thư, ba lần đi sứ Trung Quốc). Đình Đại Lan hiện còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật có giá trị gồm 11 đạo sắc phong của triều Lê, Nguyễn, cuốn thư, cửa võng, long ngai, bài vị, hương án, án văn, nhất là bốn bộ kiệu được làm từ thế kỷ XVII-XVIII. Đáng chú ý là hoành phi lớn dạng cuốn thư, bên dưới là cửa võng chạy suốt gian nhà, đây là hai di vật được trang trí bằng kỹ thuật chạm thủng, sơn son thếp vàng. Rồng chầu mặt trời, rồng cuốn thủy, long mã tranh châu…..được trang trí ở diềm bức hoành phi. Phần trên cửa võng là đôi rồng lớn chầu mặt hổ phù, hai bên trang trí các hình rồng phun nước, phượng, long mã…bên dưới hai hiện vật này là một phương án gỗ được trang trí tỉ mỉ bằng kỹ thuật chạm nổi các hình rồng lá cách điệu chầu hổ phù, chính giữa là rồng, phượng, hướng về hình mặt trời ở giữa…Chính điện có bức hoành phi làm theo dạng cuốn thư treo trên một cửa võng được đục chạm tinh xảo. Các mảng trang trí ở đó đều thể hiện những đề tài chạm khắc truyền thống: lưỡng long triều nhật, rồng cuốn thủy, long mã tranh châu, phượng múa… Phía dưới là một hương án với những mảng điêu khắc kín xung quanh diềm. Hai gian bên có treo hoành phi trên lối vào cung cấm. Trong hậu cung còn có một khám lớn đặt các long ngai và bài vị của 4 vị Thành hoàng làng. Hội làng Đại Lan diễn ra vào ba ngày mồng 6, mồng 7 (chính hội) và mồng 8 tháng Giêng. Trong ngày hội hằng năm không thể thiếu môn đánh gậy để tưởng nhớ công lao các vị thần, đồng thời cũng để rèn sức, rèn trí giữ yên xóm làng. Chùa Đại Lan Chùa Đại Lan (Phổ Huệ Tự), vốn là nghè của làng Đại Lan, xã Duyên Hà. Bởi trước đây, chùa đã nhiều lần di chuyển và lần gần đây nhất vào năm 1959 khi sông Hồng đổi dòng, đất chùa bị sụt nên dân làng đã chuyển tượng Phật và đồ thờ vào nghè để thờ, từ đó nghè đã được chuyển thành chùa. Xưa kia công trình nghè có quy mô kiến trúc lớn với kết cấu “tiền Nhất hậu Đinh”. Tiền đường gồm năm gian và ba gian Thượng điện. Chùa xây tường gạch bao quanh, tường hồi bít đốc, cuối bờ chảy xây tay ngai giật cấp, hai mái lợp ngói ri, chính giữa bờ nóc đắp bức cuốn thư, bên trong đắp nổi chữ Hán ghi tên chữ của chùa, hai đầu bờ nóc đắp hai con rồng lá ngậm bờ nóc, hai tường hồi được xây tường lửng nối với hai cột trụ, đỉnh trụ đắp tứ phượng chụm đuôi vào nhau, xuống dưới là ô lồng đèn bên trong đắp nổi tứ linh (long, ly, quy, phượng), thân trụ được đắp các gờ nổi bên trong viết các đôi chữ Hán có nội dung ca ngợi cảnh đẹp của chùa và lòng từ bi hỷ xả, bác ái của đạo Phật. Vào bên trong, bộ vì đỡ mái tòa Tiền đường được làm theo kiểu: Thượng giá chiêng chồng rường, hạ cốn, kẻ hiên, bẩy hậu trên mặt bằng bốn hàng chân cột. Trang trí trên kiến trúc nhà Tiền đường được tập trung trên các đầu dư, con rường, kẻ và các bức cốn với đề tài trang trí chủ yếu là rồng, tứ linh, tứ quý, hoa cúc, bát bửu của đạo Nho…Đáng lưu ý nhất là hai bức cốn nách ở hai bên hồi thể hiện rồng mây bằng kỹ thuật chạm lộng. Rồng mây thể hiện quan niệm truyền thống của Nho giáo long vân khánh hội, Vân tòng long, phong tòng hổ là hình tượng cho sự gặp gỡ vua tôi. Sự có mặt của hai bức cốn trang trí long vân là rất phù hợp trong một kiến trúc nghè thờ các vị khoa bảng trước đây. Hậu cung chùa Đại Lan được xây các bệ cao dần từ ngoài vào trong, trên bệ có đặt các pho tượng. Trên cùng là bộ tượng Tam Thế. Lớp thứ hai là bộ tượng Di Đà Tam Tôn, với tượng A Di Đà ngồi giữa, hai bên là tượng Quan Thế Âm và tượng Đại Thế Chí. Lớp tiếp theo là tượng Di Đà Tiếp Dẫn, hai bên là tượng Thị Giả. Lớp thứ tư gồm cá tượng Quan Âm Chuẩn Đề, hai bên là tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ. Ngoài cùng là tượng Ngọc Hoàng và Phạm Thiên, Đế Thích, rồi đén tòa Cửu Long và tượng Thích Ca Sơ Sinh. Hai bên hồi Thượng điện có các tượng Quan Âm Tọa Sơn, Thổ Địa, Giám Trai, bộ tượng Thập Điện Diêm Vương. Ngoài nhà Tiền đường là hai ban thờ Đức Ông, Thánh Tăng và tượng Hộ Pháp Khuyến Thiện, Trừng Ác. Bên cạnh hệ thống tượng Phật, chùa Đại Lan còn lưu giữ được một số hiện vật có giá trị: Cửa võng, hương án, bát hương thời Lê; 1 đôi lọ sứ thời Thanh, 2 quả chuông, 4 bức hoành phi và 2 đôi câu đối. Năm 1989, cụm di tích đình, chùa Đại Lan được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là di tích lịch sử-văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Sở Văn hóa và Thông tin Hà Nội
Hà Nội 2403 lượt xem
Chùa Thanh Nhàn (Linh Sơn Tự) là cơ sở cách mạng bí mật của Đảng, nhà thờ Tổ là nơi hội họp, in truyền đơn, ăn ở của cán bộ cách mạng hoạt động trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 và khi Pháp tạm chiếm Hà Nội (1947- 1949). Một số cán bộ đã hy sinh anh dũng tại Chùa vào tháng 3/1949, đã được an táng tại nghĩa trang Mai Dịch- Hà Nội. Chùa Thanh Nhàn hiện nằm ở số 68, ngõ 318 đường La Thành, Đống Đa, Hà Nội. Chùa đã được Bộ Văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa vào năm 1989. Chùa Thanh Nhàn nằm trong một tổng thể di tích gồm Đình Lạc Nghiệp ở phía Đông gần kề với chùa, xa hơn chút là Đình An Cư, Đình Lương Yên. Chùa Thanh Nhàn có quy mô lớn. Tam quan cấu trúc được thể hiện theo kiểu cột trụ, có một cổng chính. Chùa chính tọa lạc trên vị trí cao nhất so với các công trình kiến trúc phụ trợ và quay hướng nam nhìn ra khoảng sân và ao sen của chùa. Chùa có kết cấu hình chữ “Đinh”, kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói ta. Bờ nóc và bờ dải đắp nhô cao, trên có trang trí thành dải các hình hoa thị, chính giữa bờ nóc đắp bức đại tự “Linh Sơn Tự”. Phần trang trí trong kiến trúc chùa chính nhẹ nhàng, các chủ đề và họa tiết chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, như: Thân trúc mai, hoa văn triện, được tập trung trên các phần cuốn mê. Cùng với kiến trúc chùa chính, có nhà tổ, kiến trúc năm gian. Trong chùa còn có nhà điện mẫu. Hiện nay, chùa Thanh Nhàn còn bảo lưu được khối lượng di vật phong phú cả về số lượng và giá trị nghệ thuật. Điển hình là các tấm bia đá cổ (9 tấm bia). Hệ thống tượng Phật, tượng Mẫu, tượng Tổ gồm 61 pho tượng lớn nhỏ. Hai quả chuông đồng được đúc vào năm Tự Đức nguyên niên (1848). Các hiện vật khác: hoành phi, câu đối… là sản phẩm của thời Nguyễn. Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược, chùa Thanh Nhàn là cơ sở nuôi dấu các đồng chí cách mạng nằm vùng, nơi in ấn, cất dấu tài liệu, truyền đơn của Đảng, trong cuộc đấu tranh bền bỉ ác liệt, có các đồng chí đã anh dũng hy sinh tại ngôi chùa này, một số các đồng chí khác về sau đã lãnh trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, họ đã trở thành những nhân chứng về thời kỳ lịch sử, đồng thời cũng là nhân chứng khẳng định sự đóng góp tích cực của chùa Thanh Nhàn trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Thủ đô Hà Nội, bảo vệ Tổ quốc, tạo thêm động lực thúc đẩy cuộc cách mạng nhanh chóng đến thắng lợi rực rỡ. Ngày nay, chùa còn là địa chỉ để những phật tử có tấm lòng hảo tâm đóng góp, chia sẻ với nhiều hoàn cảnh khó khăn trong xã hội bằng những việc làm từ thiện hết sức thiết thực và đậm tính nhân văn như: nấu cơm, cháo từ thiện cho các bệnh nhân ung thư có hoàn cảnh khó khăn tại hai bệnh viện K (địa chỉ Quán sứ và Thanh trì). Tổ chức những chương trình phát quà kết hợp với khám chữa bệnh cho đồng bào vùng sâu, vùng xa; chương trình mổ mắt cho người nghèo; phát xe lăn cho người tàn tật. Phối hợp với phòng Y tế tổ chức phòng khám từ thiện cho người nghèo ngay tại chùa. Nguồn: Trang thông tin điện tử Phường Thanh Nhàn
Hà Nội 2312 lượt xem
Đền được lập từ thời Lý Thái Tông (1028-1054) ở góc phía tây nam thành Thăng Long cũ thuộc địa phận làng Thủ Lệ nay là công viên Thủ Lệ. Thờ hoàng tử Linh Lang, con của vua Lý Thái Tông, và bà phi thứ 9 Dương Thị Quang, nhưng tương truyền vốn là con của Long Quân, tên gọi là Hoàng Châu, thác sinh, là người có công trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống. Sau khi mất, được người dân Thủ Lệ lập đền thờ và được nhà vua sắc phong là Linh Lang đại vương thượng đẳng phúc thần. Thần đã nhiều lần âm phù giúp nhà Trần trong cuộc chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông, và nhà Lê trong cuộc phục hưng. Vì trước cửa đền có đắp hai con voi quỳ gối nên quen gọi là đền Voi Phục và vì đền ở phía tây kinh thành nên còn gọi là trấn Tây hoặc trấn Đoài (Đoài, theo bát quái thuộc phương Tây). Đền Voi Phục hiện nay nằm tại phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, Hà Nội. Đền còn được gọi là Đền Voi Phục Thủ Lệ để phân biệt với Đền Voi Phục Thụy Khuê tại số 251 đường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, Hà Nội. Trước đây, đền nằm trong hệ Tứ Trấn, "giữ" phía Tây kinh thành. Nơi đây vốn là đất lắm hồ ao, lầy lội, là một trong Thập tam trại có từ thời Lý. Đương thời, thuộc tổng nội, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên. Tương truyền, đền Voi Phục được xây dựng năm Chương Thánh Gia Khánh thứ 7 (năm 1065) đời vua Lý Thánh Tông trên một khu gò cao thuộc vùng đất của trại Thủ Lệ -một trong 13 làng trại ở phía tây kinh thành Thăng Long. Mở đầu cho đền, hiện nay là cổng tứ trụ, như những trục vũ trụ đem sinh khí từ tầng trên truyền xuống trần gian (đây là sản phẩm của thế kỷ XIX - XX), hai bên cổng có bia hạ mã và đôi voi chầu phục (hiện mới được xây thêm nghi môn tứ trụ nữa, ở sát với đường lớn). Cũng chính vì điều này mà đền mang tên Voi Phục. Mới
Hà Nội 2246 lượt xem
Đình Hoàng Xá, thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội được xây dựng từ thế kỷ XVII, đã được Bộ Văn hóa xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia trong đợt đầu tiên vào năm 1962. Đình Hoàng Xá thờ đức Thành hoàng Quý Minh, theo huyền sử nước ta là một trong 3 vị Thánh của núi Tản Viên (Ba Vì) sống vào cuối thời vua Hùng. Tên đình được lấy theo tên làng Hoàng Xá trước thuộc xã Liên Bạt, sau mới sáp nhập vào thị trấn Vân Đình. Cuối thời Lê, làng Hoàng Xá thuộc xã Hoa Đình, tổng Phương Đình, huyện Sơn Minh, trấn Sơn Nam Thượng. Đình được dựng vào ngày tốt tháng 5 Giáp Tuất niên đại Chính Hòa thứ 15 thời Lê Trung Hưng (1694). Việc xây cất và trang trí kéo dài trên 40 năm đến thời Lê Vĩnh Hựu (1735-1740) mới hoàn thành. Lúc đầu đình chỉ có một tòa nhà theo hình chữ “Nhất”. 166 năm sau, dân làng Hoàng Xá cho tiến hành sửa chữa nhỏ và xây cất thêm Trung cung, Hậu cung theo kiểu kiến trúc hình chữ “Công”. Trên cột hiên đầu phía bắc sau đình vẫn còn một dòng chữ Hán ghi rõ “Tự Đức thập tam niên thập nhất nguyệt, nhật, bản thôn tu trợ đình sở” (năm Canh Thân 1860). Trong đình hiện đang lưu giữ những mảng chạm khắc đạt đỉnh cao nhất của nghệ thuật thời Lê Trung Hưng. Đình Hoàng Xá tọa lạc trên một khu đất rộng giữa làng, gọi là thế đất “Tả kỳ hữu kiếm” (bên trái có cờ, bên phải có kiếm). Mặt đình nhìn về hướng tây - tây bắc. Nghi môn được thiết kế theo kiểu trụ biểu. Đầu trụ có hình lồng đèn, phía trên đắp đôi lân chầu nhau. Lòng thân trụ có ghi các câu đối. Sát với trụ biểu là hai lối đi kiểu cổng vòm với hai tầng mái, đao cong, đắp ngói ống. Năm 1995 dân làng xây thêm ở 2 bên sân đình 2 nhà giải vũ gồm 4 gian tường hồi bít đốc. Tòa Đại bái xây trên nền hình chữ nhật rộng 200m2, gồm 3 gian lớn và 2 chái, không đều nhau. Gian giữa là nơi hành lễ, các gian bên trước lát gỗ làm nơi sinh hoạt cộng đồng, nay xây 4 bệ lát gạch. Bộ khung gỗ được làm vững chắc trên các hàng cột to, tròn. Cột cái của hai bộ vì giữa có chu vi 1,85m, cột quân có chu vi 1,25m. Bốn bộ vì chính được làm theo hai thức khác nhau. Hai bộ kết cấu theo kiểu “Thượng rường hạ bẩy”, hai bộ chính bên lại có kết cấu theo kiểu “Thượng chồng rường hạ kẻ”. Đỡ phần trên hai mái hồi là hệ thống chồng rường đặt trên thanh xà ngang to. Xà có một đầu ăn mộng qua thân cột cái với hai vì bên, đầu kia đặt trên cột quân phía gian hồi. Tòa Hậu cung gồm 1 gian 2 dĩ, xây trên nền hình vuông, có 4 lá mái và các góc đao cong. Giữa bốn cột cái đặt một sập lớn, bên trên là cỗ khám thờ hình khối hộp vuông được sơn son thếp vàng, trong khám có long ngai bài vị của Thành hoàng Quý Minh. Nằm vuông góc nối liền Hậu cung với Đại bái là tòa nhà Trung cung gồm 3 gian xây dọc, tạo thành 3 tầng cửa võng. Trong đình Hoàng Xá có các tác phẩm điêu khắc đầy tính nghệ thuật được thể hiện trên các thân bẩy, kẻ, ván bưng, các bức cốn, chồng rường, các đầu dư… Nhiều nhất là các bức chạm rồng với đề tài Độc Long, Long Vân, Long Ổ, Long Ly... Bốn con kìm được chạm thành những hình rồng có đầu thon, đuôi dài ẩn phía sau cột cái, mặt ngựa với trán dô, mũi hếch, miệng cười, râu, bờm đua ra sau như những đao mác dài che kín phần cổ, hai chân choãi ra vững chắc. Trên khắp bộ khung của đình, hình rồng được tạo ở các tư thế khác nhau theo phong cách chạm lọng, chạm bong nhiều lớp của nghệ thuật thời Lê Trung Hưng. Đan xen với rồng là các bức chạm với nhiều đề tài sinh hoạt của người và thú như cảnh các tiên nữ múa hát, nhạc công đánh trống, hát cửa đình, chèo thuyền, đấu vật, chọi gà… cảnh voi đi cày, ngựa hoặc cảnh cưỡi voi cưỡi ngựa, táng mả hàm rồng… Ngoài chạm khắc, trong đình Hoàng Xá hiện còn giữ được một khám thờ lớn với ngai vị, bàn thờ và các sắc phong từ thời vua Quang Trung đến Khải Định, rồi kiệu rồng, bát bửu, cùng hoành phi, câu đối. Trong 3 gian chính của tòa Đại bái, ở giữa hai xà dọc thượng có ba bức hoành phi lớn. Gian giữa là bức “Sơn anh hải tú” (chữ “tú” rất đẹp với lớp thếp vàng bị bong dần theo năm tháng), gian phải đề “Ích thi vô phương”, gian trái là “Cực hữu qui hội”. Trung cung có 3 tầng cửa võng long chầu phượng vũ. Phía trước là bức hoành phi “Thánh cung vạn tuế” (hiện nay bức này và cửa võng không còn). Qua cửa võng là bức hoành phi “Thân tích vô cương” cùng với đôi câu đối “Hoàng Xá xuân hùng đoan hữu cực/ Phương Đình nhật lệ điện hành quy”. Trong Hậu cung, trước khám thờ Thành hoàng là bức hoành phi “Hiển linh từ”, bên phải khám có lá cờ “Khâm ban thượng đẳng”. Nguồn: Sở Du lịch Hà Nội
Hà Nội 2243 lượt xem
Chùa Một Cột là một quần thể kiến trúc gồm ngôi chùa và toà đài giữa hồ, vốn có tên là chùa Diên Hựu và đài Liên Hoa. Đài này từ lâu quen gọi là chùa Một Cột. Chùa xưa nằm ở phía Tây thành Thăng Long, thuộc thôn Ngọc Thanh, Ngọc Hà, nay là địa điểm phía sau Lăng Bác. Chùa được dựng trên một hồ hình vuông, giữa hồ có một cột đá, cao chừng hai trượng, chu vi chín thước, đầu trụ đặt một toà chùa ngói nhỏ, hình như một đoá hoa sen dưới nước mọc lên vì thế chùa có tên là chùa Nhất Trụ hay chùa Một Cột. Chùa được xây dựng từ năm 1049, tức năm đầu niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo vua Thái Tông nhà Lý. Tục truyền khi ấy vua Thái Tông tuổi đã cao mà chưa có con trai nên thường đến cầu tự ở các chùa. Một đêm vua nằm chiêm bao thấy đức phật Quan Âm hiện trên đài hoa sen trong một cái hồ vuông ở phía Tây thành, tay bế một bé trai đưa cho nhà vua. Sau đó quả nhiên nhà vua sinh con trai. Thấy ứng nghiệm, vua liền sai lập chùa để thờ phật Quan Âm. Khi chùa làm xong vua triệu tập toàn bộ các tăng ni phật tử ở kinh thành đứng chầu xung quanh, tụng kinh suốt bảy ngày đêm và lập thêm một ngôi chùa lớn bên cạnh để thờ phật, gọi là chùa Diên Hựu. Năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho sửa lại chùa, dựng lên một cây tháp bằng đá trắng trước chùa Diên Hựu gọi là tháp Bạch Tuynh. Tháp cao 13 trượng. Từ tháp vào chùa Một Cột đi bằng một hành lang cầu vồng. Mỗi tháng hai ngày Rằm, mồng Một, nhà vua cùng các hậu, phi, cung tần và cận thần tới chùa lễ phật. Đặc biệt cứ đến ngày 8 tháng Tư âm lịch hàng năm là ngày Phật sinh, nhà vua lại ngự ra chùa trước một đêm, giữ mình chay tịnh để làm lễ tắm phật ngày hôm sau. Ngày này rất đông các tăng ni phật tử và nhân dân các nơi tới dự, làm nên ngày hội lớn ở kinh đô. Trong ngày này, tại chùa có lễ phóng sinh. Lễ phóng sinh bắt đầu ngay sau lễ tắm phật, nhà vua đứng trên đài cao, tay cầm một con chim thả cho bay đi, sau đó đến các tăng ni và các thiện nam tín nữ đua nhau mỗi người thả một con, bóng chim bay rợp trời. Sử cũ chép vào năm Long phù thứ tám (1108), nhà vua cho xuất kho một vạn hai ngàn cân đồng để đúc một quả chuông lớn gọi là Giác thế chung (chuông thức tỉnh người đời), để treo ở chùa Diên Hựu. Lại xây một toà Phương đình bằng đá xanh cao tám trượng, trên nóc đình đóng những gióng sắt to để treo chuông. Nhưng chuông đúc xong đánh lại không kêu nên đành bỏ ngoài ruộng. Lâu ngày bị lãng quên, chuông thành tổ của rùa, vì thế chuông có tên Quy điền. Năm 1922 trường Viễn đông Bác cổ có sửa chữa lại chùa và giữ đúng theo kiến trúc cũ. Đêm 11-9-1954, bọn tay sai thực dân Pháp trước khi giao trả Thủ đô cho Chính phủ và nhân dân ta đã cố tình đặt mìn phá hoại chùa. Sau ngày tiếp quản Thủ đô, Chính phủ đã cho chiếu theo đồ dạng cũ, sửa chữa lại. Tháng 4-1955, chùa Một Cột được dựng hoàn nguyên như cũ. Cho đến năm 1958, nhân dịp Hồ Chủ Tịch đi thăm Ấn Độ, nhân dân Ấn Độ đã kính tặng người cây Bồ đề của đất Phật và đã được trồng tại sân chùa. Chùa Một Cột được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia đợt đầu tiên năm 1962. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Quận Ba Đình
Hà Nội 2012 lượt xem
Chùa Pháp Vân tọa lạc trên địa bàn thôn Văn Giáp (xã Văn Bình, huyện Thường Tín). Theo văn bia cổ thời Lê, chùa có tên là Bồ Đà Tự, còn theo sách "Đại Nam nhất thống chí", chùa có tên là Pháp Vân. Đây là một trong những ngôi chùa theo tín ngưỡng Tứ pháp, thờ các vị thần vân, vũ, lôi, điện (mây, mưa, sấm, chớp). Chùa Pháp Vân được thiết kế kiểu “nội công ngoại quốc”, gồm gác chuông, tiền đường, hậu cung. Từ cổng chùa đi vào là sân rộng lát gạch Bát Tràng, trên có bia đá “Pháp Vân Tự bi ký” dựng năm 1616. Nội dung trên tấm bia nói về việc sửa chùa, tu tạo hậu đường và hành lang do bản tự tăng đạo duệ Nguyễn Tiềm đứng ra cùng Nhân dân địa phương và một số quan lại, đô đốc, quận công và các phu nhân quê quán ở các nơi trong và ngoài vùng đóng góp sửa chùa. Cạnh đó là hai rồng đá tạc theo phong cách nghệ thuật thời hậu Lê. Tiếp đến là tòa đại bái. Hạng mục kiến trúc này dài 21m rộng 9m, phía trên treo chuông đồng nên cũng có người gọi là gác chuông. Về kiến trúc được làm theo kiểu hai tầng tám mái. Kết cấu bên trong theo hình thức 4 hàng chân gỗ. Từ 16 cột cái có xà nách đua ra 16 cột quân, các xà nách đồng thời là giá đỡ tạo thành một hành lang cao ngang phần cổ diêm, rộng 0,5m, lát ván có thể đi lại. Gác chuông treo một quả chuông cao 1,9m, đường kính 1,05m. Đây là quả chuông lớn nhất vùng, được đúc năm 1954. Ở các góc có đầu đao đắp nổi hình rồng. Qua tòa đại bái là tiền đường gồm 3 gian. Tòa tiền đường được nối với thượng điện bởi hệ thống “ống muống” tạo thành kiến thức chữ công cho tổng thể ngôi chùa. Thượng điện gồm 3 gian, trên bệ thờ gian chính giữa có một khám gỗ lớn. Khám làm có mái theo kiểu mui thuyền, xung quanh có 3 tấm che được làm công phu, sơn mài, khảm trai với đề tài trang trí “long vân tụ hội”, bên trong khám đặt tượng Pháp Vân bằng gỗ cao 1,3m, mô phỏng hình dáng một phụ nữ ngồi trong tư thế “tĩnh tọa” hai chân xếp bằng, hướng bàn tay về phía trước. Tượng đặt ngồi trên ngai, bên ngoài phủ áo gấm. Nét mặt trang nghiêm, phúc hậu. Bức tượng (cả mặt và thân tượng) có nước sơn cánh gián được thực hiện theo phương pháp cổ truyền của làng Văn Giáp. Theo các cụ cao tuổi, để có mầu sơn này, nghệ nhân đã pha sơn ta theo tỷ lệ: Ba phần sơn sống, một phần nhựa sống, gia giảm phèn đen, đun sôi rồi sơn phủ lên tượng nhiều lớp theo kỹ thuật của thợ lành nghề. Chùa Pháp Vân hiện còn lưu giữ nhiều di vật quý: Cuốn sách “Nam Thiên nhị pháp sự tích chân kinh phụng lục” có niên đại năm Canh Tý, đời vua Thành Thái (năm 1900), gồm 8 lá bạc kích thước 13cm x 22,5cm. Tên sách được dát chữ bằng vàng mười. Hai tờ bìa được làm bằng đồng chạm nổi hình độc long; Đôi khổng tước bằng gỗ sơn son thếp vàng, cao 2,20m tạc liền với chân, thân và mỏ khoằm. Họa tiết lông vũ trên cổ chim được cách điệu như râu rồng. 2 cỗ kiệu long đình được chạm tinh xảo, sơn son thếp vàng. Đây là những di vật của thế kỷ XVIII.. Lễ hội chùa Pháp Vân được tổ chức vào mùng 8 tháng 4 âm lịch với nghi lễ rước kiệu thu hút đông đảo du khách gần xa. Năm 1991, chùa Pháp Vân đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia. Nguồn: Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội
Hà Nội 1851 lượt xem
Đình Hạ Hiệp thuộc xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, thờ Thành hoàng là Tướng quân Hoàng Đạo. Căn cứ vào phong cách nghệ thuật trên kiến trúc, cùng những đạo sắc phong thần, có thể xác định đình Hạ Hiệp có niên đại từ thời Lê trở về trước (khoảng đầu Thế kỉ XVII trở về trước). Theo các tài liệu nghiên cứu gần đây, Đại đình được dựng từ những năm 30 của thế kỉ XVII, Hậu cung được dựng vào nửa cuối thế kỉ XVII, tu sửa và mở rộng ở thế kỉ XIX; tiền tế dựng năm 1856 và hai Nghi môn được dựng ở đầu thế kỉ XX. Qua quá trình tồn tại, tới các năm Cảnh Hưng 12 (1751), Cảnh Hưng 20 (1759), Cảnh Hưng 32 (1771) nhân dân trong làng lại cùng nhau quyên tiền tu sửa đình. Sự việc được ghi lại trong tấm bia “Tại đình bi” hiện dựng bên trái Đại đình (niên đại của tấm bia là Cảnh Hưng 32 (1771). Năm 1816, đình tiếp tục được tu bổ, làm thêm hai bể nước bằng đá, một số hòm sớ, đồ thờ tự khác... Những năm gần đây (1996, 2004, 2005), đình tiếp tục được nhà nước và nhân dân quan tâm tu bổ, gìn giữ. Về mặt kiến trúc, đình làng Hạ Hiệp gồm nhiều hạng mục công trình, tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 3.000m2. Ngoài hai cổng trước, sau, hồ nước, sân... kiến trúc chính hiện nay của đình làng Hạ Hiệp gồm 3 phần: Tiền tế, Đại đình, Hậu cung, tạo nên một mặt bằng công trình chính có dạng tiền chữ Nhất, hậu chữ Đinh. Mặt bằng tổng thể kiến trúc đình Hạ Hiệp gồm các hạng mục: Đình làng Hạ Hiệp có hai Nghi môn: nghi môn thứ nhất nằm phía trước tòa Tiền tế, trên trục thần đạo và hiện chỉ còn mang ý nghĩa tượng trưng bởi đường qua lại từ phía này đã bị bịt kín… Nghi môn thứ hai nằm phía bên trái Đại đình, sát đường liên thôn. Kích thước các cột trụ ở Nghi môn này nhỏ hơn ở Nghi môn thứ nhất. Tiền tế là một tòa nhà hình chữ nhật gồm ba gian hai chái, hai tầng tám mái kiểu chồng diêm, được dựng trên một cấp nền cao hơn mặt sân phía trước 0.17m. Nền nhà được lát gạch bát màu đỏ, theo mạch chữ công. Bộ khung gỗ của Tiền tế đình làng Hạ Hiệp được dựng trên 4 hàng chân cột đều có thiết diện vuông: 2 hàng cột cái (bằng gỗ) và 2 hàng cột quân (bằng đá). Đại đình gồm ba gian hai chái nhưng mỗi chái có kích thước lớn gần như một gian. Toàn bộ công trình này được dựng trên một cấp nền hình chữ, bó vỉa xung quanh là những viên đá xẻ. Đình xưa vốn có sàn. Theo các bậc cao niên trong làng kể lại thì sàn đình đã bị dỡ trong khoảng từ năm 1968 đến 1970. Bộ khung Đại đình được dựng trên 6 hàng cột gỗ lim. Hậu cung, nơi đặt bài vị thờ Thành hoàng gồm 2 gian, dựng vuông góc với tòa ngoài, có hai lớp mái trước, sau, xây kiểu tường hồi bít đốc và được dựng vuông góc với Đại đình tại vị trí gian giữa. Hậu cung gồm 3 bộ vì nóc. Bộ vì nóc ngoài cùng được đỡ bởi một câu đầu kê trên hai đầu cột quân bên phải và bên trái vì gian giữa Đại đình. Bộ vì nóc thứ hai Hậu cung được làm kiểu ván mê. Hai bộ vì nóc phía ngoài và phía trong lại được làm kiểu biến thể giá chiêng, chồng rường con nhị. Liên kết ở vì nách Hậu cung là kiểu dùng kẻ. Là cung cấm, chốn thâm nghiêm nên Hậu cung đình làng Hạ Hiệp được xây tường bao kín đáo, theo kiểu thức tường hồi bít đốc tay ngai. Không kể thượng lương và tàu mái, mỗi mái Hậu cung còn có 08 hoành. Trang trí trên kiến trúc đình Hạ Hiệp: tập trung bên ngoài, trên hệ mái tại Nghi môn, chủ yếu là những con vật thần thoại, ước lệ như: rồng, lân, phượng, voi, ngựa, các hoa văn chữ Triện. Hạ Hiệp là một trong số ít ngôi đình niên đại khởi dựng từ nửa đầu thế kỉ XVII còn bảo tồn được nguyên vẹn về kiểu dáng kiến trúc. Các mảng trang trí chạm khắc có niên đại trải dài từ Thế kỉ XVII đến đầu Thế kỉ XX vô cùng sống động, hài hòa, đã tạo nên những đặc trưng riêng. Với hàng trăm mảng điêu khắc, trang trí thuộc giai đoạn Hậu Lê, Nguyễn đã chứng tỏ sự tài hoa, khéo léo của các nghệ nhân đương thời. Những mảng chạm khắc trang trí ở đình làng Hạ Hiệp đã thể hiện tính dân gian sâu sắc với nhiều đề tài phong phú. Những kiệu, hòm sớ, sắc phong, bia đá, bể cảnh... đã tạo nên một bộ sưu tập các đồ thờ tự độc đáo, có giá trị cao về mặt lịch sử, văn hóa. Những hiện vật được coi như độc bản đã trở thành niềm tự hào không chỉ của riêng dân làng Hạ Hiệp mà còn cho thấy sức sống bền vững của di tích qua gần 4 thế kỉ tồn tại. Đặc biệt, đình làng Hạ Hiệp còn giữ được 2 bể cảnh bằng đá có kiểu dáng tương tự nhau. Trên thân bể chạm nổi các hình long cuốn thủy, hoa sen, sóng nước... Đáng chú ý trên thân mỗi bể này còn ghi rõ niên đại tạo dựng là năm Gia Long 15 (1816). Đây là hai hiện vật khá độc đáo, lại được ghi niên đại cụ thể, rất hiếm gặp trong các di tích cùng loại. Với giá trị đặc biệt trên, di tích kiến trúc nghệ thuật Đình Hạ Hiệp đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt ngày 31/12/2020. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hà Nội 1824 lượt xem
Đền Đồng Nhân xưa (tên gọi khác là đền Hai Bà Trưng) tọa lạc tại số 12 phố Hương Viên (phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Đây là một trong những ngôi đền thiêng thờ bà Trưng Trắc, Trưng Nhị. Với những giá trị đặc sắc về văn hóa, lịch sử và kiến trúc, đền Đồng Nhân cùng với đình, chùa là quần thể di tích đã được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt (năm 2020). Hai bà quê ở Phong Châu, Mê Linh. Chị là Trưng Trắc, em là Trưng Nhị. Lúc bấy giờ Thái thú nhà Hán là Tô Định tàn bạo, giết hại Thi Sách, là chồng của bà Trưng Trắc. Hai bà phất cờ nổi dậy và được dân chúng ở các nơi cùng hưởng ứng đánh đuổi quân Tô Định lấy được 65 thành trì ở Lĩnh Nam, tự xưng làm vua. Về sau, nhà Hán sai tướng là Mã Viện sang đàn áp, hai bà chống không nổi phải rút về giữ đất Cẩm Khê, sau cùng lên núi Thường Sơn và tự vẫn. Một thuyết khác nói rằng Hai Bà cùng nhảy xuống sông Hát Giang tự vẫn, sau đó khi thiêng hóa thành hai tảng đá trắng trôi trên sông Hồng về bến bãi Đồng Nhân, đêm thường phát sáng rực rỡ. Dân làng thấy vậy, bèn lấy vải đỏ rước tượng bà và lập đền thờ Hai Bà ở ngay bãi Đồng Nhân ven sông. Theo sử liệu, đền Hai Bà Trưng được xây dựng vào đời vua Lý Anh Tông, niên hiệu Đại Định thứ ba (1142), tại khu vực bãi sông của làng Đồng Nhân. Sau đó, do vùng đất này bị xói lở nên dân làng đã di dời ngôi đền tới thôn Hương Viên (vị trí ngày nay). Đền là trung tâm của quần thể di tích: Chùa Viên Minh, đình thờ thần Cao Sơn Đại vương, Quốc vương Thiên tử, thần Đô Hồ Đại vương và các vị thủy thần có công phù trợ cho cư dân sống ở ven sông. Đền được xây trên khuôn viên rộng 4.000m2, theo lối kiến trúc “nội công ngoại quốc”. Trước cổng có một hồ bán nguyệt. Qua một con đường là tới khoảng sân rộng cùng nghi môn gồm 4 trụ. Bên trái là tấm bia lớn cưỡi lưng rùa, bên phải là phương đình kiểu hai tầng tám mái. Đi vào trong là nhà tiền tế 7 gian với tượng hai con voi bằng gỗ sơn đen, được gắn đôi ngà thật. Đây là 2 voi tượng trưng cho voi của Hai Bà cầm quân ra trận. Nhà tiền tế nối với hậu cung bằng tòa thiêu hương, bên trong đặt ngai thờ và bức khảm hình Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh giặc. Gian hậu cung đặt tượng Hai Bà được đặt trên bệ đá cao khoảng 1m. Tượng bằng đất luyện, tư thế ngồi. Bà Trưng Trắc mặc áo vàng, bà Trưng Nhị mặc áo đỏ, đầu đội mũ phù dung, tượng to hơn người thật, tay giơ cao trước mặt như đang hiệu triệu quần chúng. Hai bên là tượng các nữ tướng đã theo Hai Bà khởi nghĩa đánh đuổi Tô Định, rửa nhục nước, trả thù chồng: Tướng Lê Chân, Hòa Hoàng, Thiên Nga, Nguyễn Đào Nương, Phùng Thị Chính và Bát nạn Công chúa Phạm Thị Côn. Tòa bái đường được đặt ngai thờ và 1 tấm khảm thể hiện hình ảnh Hai Bà cưỡi voi đánh giặc. Trong đền Đồng Nhân hiện còn giữ được nhiều đồ tế khí sơn son thếp vàng có giá trị như : Bát bửu, hoành phi, câu đối có niên đại thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đền Đồng Nhân còn có tấm bia “Trưng Vương sự tích bi ký” đặt ở sân trước bái đường, do tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm 1840 với nội dung ca ngợi Hai Bà là bậc “Nam bang tiết liệt”. Để tri ân công ơn của Hai Bà, hàng năm, người dân nơi đây tổ chức lễ hội đền Đồng Nhân từ mồng 4 đến mồng 7 tháng Hai. Mồng 6 là chính hội với nét đặc sắc là chương trình biểu diễn nghệ thuật tái hiện cảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh giặc. Phần hội sôi nổi với các trò chơi dân gian. Đúng 12h trưa là lễ rước cỗ ông chủ và tế hội đồng của 4 xã kết chạ cùng thờ Hai Bà Trưng gồm làng Phụng Công (xã Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên), làng Hạ Lôi (xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội) và làng Hát Môn (xã Hát Môn, huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội). Lễ hội ở đền Đồng Nhân thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, tri ân những anh hùng dân tộc, những người có công với nước với dân. Có nhiều nơi lập đền thờ Hai Bà Trưng: Hát Môn (huyện Phúc Thọ), Phụng Công (Hưng Yên), ở Mê Linh (huyện Mê Linh)… và có tới hơn bốn trăm nơi thờ các vị tướng của Hai Bà nhưng đền Đồng Nhân vẫn là điểm đến của nhiều du khách gần xa. Sở Văn hóa và Thể thao Thành phố Hà Nội
Hà Nội 1812 lượt xem
Chùa Láng tọa lạc tại làng Yên Lãng, nay thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Chùa Láng được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1128 -1138) ở ngay trên nền nhà cũ của ông bà Từ Vinh thân sinh ra vị thiền sư nổi tiếng Từ Đạo Hạnh. Thiền sư Từ Đạo Hạnh từng tu tại chùa Phật Tích (Sài Sơn- Hà Nội) và theo sách Hoàn Long huyện chí, Từ Đạo Hạnh từng sang Tây Thiên học phép Phật, biết cưỡi mây, đạp nước, bay lên trời, chui xuống đất, kì diệu khôn lường. Sau khi Từ Đạo Hạnh lên núi Sài Sơn tu luyện, hóa thân đã đầu thai vào làm con trai của Sùng Hiền hầu, (em ruột Lý Nhân Tông) rồi được truyền ngôi vua là Lý Thần Tông. Chùa Láng ngoài thờ Phật còn thờ Từ Đạo Hạnh và Lý Thần Tông. Chùa Láng có tên chữ là Chiêu thiền tự. Bia tạo lệ chùa Chiêu Thiền (Chiêu Thiền tạo lệ tự bi) được khắc vào năm Thịnh Đức thứ 4 (1656) còn lưu giữ tại chùa đã giải thích tên chùa như sau: “Đất phúc cõi thiêng duy có chùa Chiêu Thiền bậc nhất. Vì có điềm tốt rõ rệt, nên gọi là “Chiêu”. Đây là nơi sinh ra Thiền sư Đạo Hạnh nên gọi là Thiền”. Chùa có 2 tam quan, trong đó tam quan ngoại được giới nghiên cứu cho rằng có tính chất nghi môn của cung vua phủ chúa thời Lê trung hưng (1533-1789) với 4 trụ cột vuông to và ba mái nhỏ uốn cong gắn vào sườn cột. Tam quan này được coi là tam quan mẫu cho các công trình văn hóa khác trùng tu sau này như cổng đền Voi Phục, cổng chùa Tây Phương và cổng đình Kim Liên (Hà Nội). Ngay sau cổng tam quan là một khoảng sân rộng lát gạch Bát Tràng. Giữa sân có sập đá là nơi đặt kiệu thánh khi thực hiện các nghi lễ. Tam quan nội được xây với cấu trúc nhà 3 gian, có 2 hàng gạch chống 4 lớp song song xếp theo kiểu mái chồng. Đi qua tam quan nội, bạn sẽ nhìn thấy con đường dẫn vào chính điện được lát gạch sạch sẽ, hai bên là hàng muỗm cổ thụ rợp bóng mát. Dọc đường đi còn có thêm những câu đối được viết trên mảnh sứ màu xanh. Nhà Bát Giác là nơi đặt tượng thiền sư Từ Đạo Hạnh với lối kiến trúc mái trồng 2 tầng, 16 mái và trên đầu đắp 8 con rồng tượng trưng cho 8 đời vua của nhà Lý. Ngoài pho tượng tại nhà Bát Giác, ngôi cổ tự còn nổi tiếng gần xa khi sở hữu 198 pho tượng quý giá, trong đó có tượng vua Lý Thần Tông ngồi trên ngai vàng. Nơi đây cũng lưu giữ nhiều bảo vật như 31 câu đối, 39 bức hoành phi, 15 bia đá… Chùa Láng trước đây được ghi nhận có tổng cộng 100 gian nhà. Tất cả đều được xây dựng theo phong cách kiến trúc nội công ngoại quốc. Kiểu kiến trúc này đã có từ thời xưa với đặc điểm nổi bật là hai hàng lang dài kết nối nhà tiền đường và hậu đường với nhau, tạo nên một khung hình chữ nhật đóng kin. Ở giữa thường bố trí nhà thiêu hương hoặc Thượng điện. Dù trải qua hàng ngàn năm, quần thể công trình chùa Láng vẫn giữ vẹn nguyên vẻ đẹp uy nghi, bề thế. Mỗi năm vào ngày 7 tháng 3 Âm lịch, người dân sinh sống tại phường Láng Thượng sẽ tiến hành tổ chức lễ hội Chùa Láng với nghi thức vô cùng trang trọng. Thời gian lễ hội diễn ra chính là ngày sinh của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Lễ hội sẽ bao gồm nhiều hoạt động đặc sắc, trong đó có phần rước kiệu Thánh từ chúa Láng đến chùa Hoa Lăng để thăm thân mẫu. Lễ hội cũng tái hiện lại cuộc đấu thần giữa thiền sư Từ Đạo Hạnh và sư Đại Điên. Chùa Láng được công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá quốc gia vào năm 1962. Nguồn: Du lịch Thăng Long
Hà Nội 1803 lượt xem
10 Thôn, Cổ Rùa, Thôn Cổ Rùa, Huyện Quốc Oai, Hà Nội, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
Thôn Phú Yên, Yên Bài, Huyện Ba Vì, Hà Nội, Việt Nam
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Chỉ từ : Liên hệ
Giảm giá 0% 63Stravel Vip
Giá cuối cùng : Liên hệ
94 P. Lò Đúc, Phạm Đình Hổ, Hai Bà Trưng, Hà Nội 100000
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
số 10 Thợ Nhuộm, Cửa Nam, Hoàn Kiếm, Hà Nộ
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Số 18 Ngõ 19 Đông Tác, Quận Đống Đa , Hà Nội.
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Số 25 ngõ 59 Láng Hạ, quận Đống Đa, Hà Nội.
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
102 Thái Thịnh, Đống Đa, Hà Nội.
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Giảm giá 5% 63Stravel Vip
Số 2 ngõ 69 Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội .
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
153 Láng Hạ - Q. Đống Đa - Hà Nội
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Số 19 ngõ 183 phường Đặng Tiến Đông, Trung Liệt, Đống Đa, Hà Nội.
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
60 Lê Văn Thiêm, Phường Thanh Xuân, Hà Nội
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Giảm giá 10% 63Stravel Vip
Số 1 Quan Nhân, Nhân Chính, Q. Thanh Xuân, Hà Nội
Hiệp hội du lịch Hà Nội
Giảm giá 10% 63Stravel Vip