Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel
Tải ứng dụng 63Stravel
Di tích lịch sử Chiến thắng Chương Thiện phân bố tại 2 địa điểm: khu vực 3, phường 5, thành phố Vị Thanh và ấp 1, xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Chương Thiện từng là một tỉnh, được chế độ Ngụy quyền Sài Gòn thành lập ngày 24/12/1960, gồm huyện Long Mỹ, Vị Thanh; Nơi đây là đầu mối giao thông thủy bộ quan trọng để đi các tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, U Minh, Rạch Giá. Địch coi Chương Thiện là tuyến phòng thủ từ xa để bảo vệ đầu não vùng 4 chiến thuật (đóng tại thành phố Cần Thơ), là lá chắn ngăn chặn quân chủ lực của ta tấn công, làm bàn đạp để đánh phá căn cứ địa cách mạng U Minh. Do đó, Chương Thiện trở thành một địa bàn chiến lược quan trọng đối với cả ta và địch. Với ta, Chương Thiện là vành đai vững chắc để bảo vệ căn cứ U Minh, là bàn đạp để tấn công vào Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá. Nơi đây còn là hậu phương lớn, dự trữ người và của phục vụ cho công cuộc kháng chiến. Sau khi Hiệp định Paris (năm 1973) có hiệu lực, Ngụy quyền Sài Gòn và đế quốc Mỹ vẫn có ý đồ tiêu diệt cách mạng miền Nam, xóa bỏ vùng giải phóng với những kế hoạch bình định, lấn chiếm… Nhận biết được tình hình và âm mưu của địch, quân ta đã có sự chuẩn bị để đối phó. Trong suốt 11 tháng (từ tháng 1 đến tháng 11 năm 1973), quân và dân ta đã kiên cường bám trụ, chiến đấu dũng cảm, giữ vững được địa bàn. Kế hoạch bình định Chương Thiện của địch bị thất bại hoàn toàn. Chiến thắng Chương Thiện năm 1973 là minh chứng sống động cho một chủ trương đúng đắn, táo bạo, kịp thời của quân và dân đồng bằng sông Cửu Long. Chiến thắng này cũng góp phần tạo ra một trong những cơ sở quan trọng để Nghị quyết 21 ra đời, tạo tiền đề cho sự chuyển hướng của cách mạng miền Nam, tiến tới cuộc Tổng tiến công và nổi dậy toàn thắng năm 1975. Nhằm phát huy giá trị di tích lịch sử và giáo dục truyền thống cách mạng, điểm di tích khu vực 3, phường 5, thành phố Vị Thanh và điểm di tích ấp 1 xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ đã được chọn làm địa điểm lưu niệm sự kiện chiến thắng Chương Thiện của quân và dân khu 9. Tại địa điểm khu vực 3, phường 5, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang: Theo quy hoạch tổng thể đã được phê duyệt, điểm di tích này có diện tích 44.303.7m2, với các hạng mục: khu nhà trưng bày hiện vật (1024m2), khu trưng bày ngoài trời, tượng đài, sân lễ và một số hạng mục phụ trợ khác. Hiện nay, nhiều hiện vật liên quan đến khu di tích, như hơn 100 ảnh tư liệu về một số trận đánh tiêu diệt phân chi khu Cái Nai, yếu khu Quang Phong, diệt đồn Rọc Dứa, Cái Sơn, Cái Cao...; 117 hiện vật, gồm vũ khí, quân trang, xe tăng, máy bay…, đã được tiếp nhận, lưu giữ tại kho hiện vật của Bảo tàng tỉnh Hậu Giang. Tại địa điểm ấp 1, xã Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang: Năm 1998, tỉnh Cần Thơ (cũ) đã quy hoạch tổng diện tích 58.000m2 đất để xây dựng các hạng mục sau: nhà trưng bày (900m2), nhà hội, sân đường nội bộ và một số hạng mục phụ trợ khác. Chiến thắng 75 lượt tiểu đoàn địch bình định lấn chiếm Chương Thiện sau hiệp định Paris 1973, không những đã đánh bại chiến thuật, mà còn làm sụp đổ ý đồ chiến lược của Mỹ - Ngụy muốn giành thế mạnh trong giải pháp chính trị, góp phần tạo ra bước ngoặt, đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của địch. Với những giá trị đặc biệt của di tích, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Chiến thắng Chương Thiện là di tích quốc gia đặc biệt ngày 09/12/2013. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
Hậu Giang 2283 lượt xem
Chùa Cù Là Mới tọa lạc tại khu phố Minh Lạc, thị trấn Minh Lương, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang là một ngôi chùa Phật giáo hệ phái Nam tông Khmer. Chùa Cù Là được công nhận di tích lịch sửu văn hoá cấp quốc gia ngày 28 tháng 9 năm 1990. Sau cuộc tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968 và mùa hè 1972, quân dân Miền Nam nổi dậy khắp nơi. Trong khi đó quân ngụy Sài Gòn liên tiếp thất bại. Từ đó chính quyền Sài Gòn liên tiếp mở nhiều cuộc bao vây các chùa Khmer, chặn đường, xét, bắt sư sãi và con em đồng bào dân tộc đi lính. Trước tình hình trên, được sự chỉ đạo của Tỉnh Ủy và Ban Khmer vận, vào lúc 5 giờ 30 phút ngày 10/06/1974 sư sãi cùng đồng bào dân tộc khmer, kinh, hoa đổ ra đường lộ 12 (nay là quốc lộ 61) để biểu tình đòi trả tự do cho các vị sư bị bắt đi quân dịch. Đồng thời đoàn biểu tình còn giương cao các khẩu hiệu như: “Chấm dứt bắn phá chùa chiền, giết hại sư sãi và đồng bào vô tội”; “Tôn trọng tự do tín ngưỡng”; “Lập lại hòa bình, chống chiến tranh phi nghĩa”… Bốn vị sư đã hy sinh, sau khi bắn chết các vị sư, chúng đã chở các thi hài về bệnh viện tỉnh lột áo cà sa của các vị sư ra, mặc áo đen vào rồi đặt trên mình các vị sư mỗi vị một khẩu súng A-K, rồi vu khống là việt cộng. Trước cuộc đấu tranh mạnh mẽ của sư sãi và đồng bào buộc chúng phải cử người xuống xin lỗi sư sãi, đồng bào và trả lại thi hài 4 sư đã hy sinh, đồng thời đưa các vị sư, đồng bào bị thương đi chữa trị. Đến 16 giờ 30 phút, ngày 10/6/1974 chính quyền địch đã cho xe chở thi thể 4 sư về chùa tháp Cù Là để làm lễ táng. Sau ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, để ghi công và tưởng nhớ tấm gương anh dũng hy sinh của 4 vị sư và đồng bào sư sãi, Nhà nước đã công nhận và cấp bằng Tổ quốc ghi công cho 4 sư: Đến ngày 20/9/1990 tháp 4 sư liệt sĩ được công nhận di tích Văn Hóa – Lịch Sử cấp quốc gia. Chùa Cù Là được chọn xây dựng trên một khu đất rộng, bao bọc bởi những hàng cây dầu, cây thốt nốt, rừng tràm xanh tươi. Tổng thể chùa gồm: cổng chùa, tường rào, ngôi chính điện, tháp đựng cốt, tăng xá, nhà hội, an xá,… Trong đó, nổi bật và quan trọng nhất là ngôi chính điện được xây dựng ở trung tâm của ngôi chùa. Bên ngoài của chính điện có các công trình phụ trợ, các trang trí phù điêu đắp nổi, thể hiện các hình tượng tiên nữ xinh đẹp, chim thần Krud nâng đỡ mái chùa, chằn Yeak hung dữ, đầu thần Bayon bốn mặt... được lấy từ văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Khmer, ngoài ra có các dãy hành lang tạo không gian thoáng mát, trang trí các hình tượng những thế lực tà ác đã bị đức Phật quy phục. Trong không gian trong chính điện bài trí nhiều họa tiết tinh tế với một bệ thờ theo hình một tòa sen chia thành nhiều cấp và trang trí trau chuốt, cẩn thận để thờ đức Phật bên trên. Tượng Phật Thích Ca được chạm khắc hài hòa với không gian chính điện và có thể tạo dáng ở nhiều tư thế đứng, nằm, ngồi, thể hiện sự đa dạng, phong phú về ý nghĩa đạo đức và vẻ đẹp của Đức Phật. Nguồn: Trang Thông tin điện tử Sở Nội vụ tỉnh Kiên Giang
Kiên Giang 1998 lượt xem
Tọa lạc tại Khu phố Sơn Tiến, thị trấn Sóc Sơn huyện Hòn Đất, Chùa Sóc Xoài là ngôi chùa có kiến trúc điển hình của Phật giáo Nam tông Khmer tại tỉnh Kiên Giang. Chùa được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia năm 1989. Được thành lập vào những năm cuối thế kỷ 18 do Hòa thượng Danh Phiêch sáng lập. Trải qua 19 đời trụ trì, chùa Sóc Xoài không chỉ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa cho chư tăng và đồng bào Khmer mà còn là nơi nuôi chứa cán bộ cách mạng trong cuộc đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ cứu nước. Bên cạnh đó, chùa Sóc Xoài vừa là trường học dạy chữ viết, là trung tâm giáo dục cho đồng bào Khmer tại địa phương. Theo Đại đức Danh Hữu Giang, Phó trụ trì chùa Sóc Xoài cho biết, ngôi chùa Sóc Xoài được coi là một địa điểm che chở, quây quần bà con Khmer tại địa phương, là điểm kết nối văn hóa, tình đoàn kết dân tộc, là nhân tố làm đẹp thêm truyền thống dân tộc, tôn giáo của nhân dân Hòn Đất nói riêng và tỉnh kiên Giang nói chung. Theo Đại đức Danh Hữu Giang, Phó trụ trì chùa Sóc Xoài nói: Chùa Sóc Xoài có truyền thống đấu tranh trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và ngày nay luôn thể hiện vai trò hướng dẫn đồng bào Khmer tu tập theo giáo lý Phật, thực hành văn hóa theo truyền thống dân tộc. Ngoài ra, chùa Sóc Xoài còn tái hiện một số dụng cụ dùng để đánh bắt cá, làm ruộng nương được làm bằng tre như: nôm, sniên, trúm, giỏ đựng cá,… và nhiều vật dụng sinh hoạt như: nọc cấy, gàu sòng, bừa.. đồng bào Khmer xưa. Theo sự phát triển của xã hội thì các công cụ lao động sản xuất cũng như các vật dụng phục vụ đời sống sinh hoạt của đồng bào Khmer xưa không còn phù hợp với thời đại. Các vật dụng này, theo thời gian sẽ dần đi vào quên lãng và hư hỏng nếu không được bảo quản và giữ gìn. Vì thế các vật dụng này được tái tạo lại với mục đích cho con cháu sau này biết đến các hoạt động sản xuất và nét đẹp văn hóa của ông cha từ thời xa xưa. Về trường học, ở chùa Sóc Xoài thì có dạy tiếng Bali, tiếng săncrít và kinh luận giới. Trong đó, có ngôn ngữ Khmer, giới luật của đức Phật. Bên cạnh đó, còn phối hợp để mở lớp trung cấp Luật. Lớp này là để cho Chư tăng và phật tử hiểu được cái cốt lõi là chính sách, là đường lối pháp luật của nhà nước mình để cho nắm rõ, nhất là luật về tôn giáo, khi mình hiểu rõ mình sẽ dễ hoạt động trong cộng đồng mình và trong chùa mình muốn xây dựng hoặc muốn gì đó cũng không vi phạm pháp luật. Bên cạnh việc dạy chữ, đào tạo kiến thức về văn hóa, về pháp luật cho chư tăng, phật tử, chùa Sóc Xoài còn bảo tồn, lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc thông qua việc tổ chức chương trình văn nghệ, thi diễn thời trang. Thông qua các lễ hội được tổ chức đúng truyền thống văn hóa, giúp giới trẻ người Khmer tại địa phương hiểu biết, tôn quý giá trị văn hóa truyền thống, từ đó hiểu đúng ý nghĩa của lễ hội, bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc, nâng cao vai trò của người Khmer trong xây dựng cộng đồng, xây dựng và bảo vệ đất nước. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Sở Văn hóa và Thể thao Kiên Giang
Kiên Giang 2962 lượt xem
Di tích lịch sử và thắng cảnh Mo So thuộc ấp Ba Núi, xã Bình An, huyện Kiên Lương (Kiên Giang). Mo So tiếng Khmer nghĩa là núi vôi, hay đá trắng. Ngọn núi này có diện tích 23,5ha. Mo So được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử và thắng cảnh cấp quốc gia ngày 13/2/1995. Thời chống Pháp, Mo So là nơi đóng quân của Công binh xưởng Quân khu 9, Công binh xưởng 18 chế tạo, sửa chữa vũ khí, cung cấp cho quân ta ở chiến trường Tây Nam Bộ. Những năm 1950, địch mở nhiều cuộc càn quét vào hậu cứ vùng giải phóng, trong đó có Mo So nhằm cắt nguồn hậu cần, làm suy yếu sức mạnh tiến công của quân, dân ta. Sáng ngày 4/3/1951, địch đánh Mo So. Pháo từ biển bắn vào tới tấp, binh khí hỏa lực từ máy bay trút xuống. Mo So rền vang trong cơn mưa đạn, không gian bao trùm một màu ảm đạm. Lực lượng ta chỉ có 60 đồng chí, chiến đấu anh dũng. Trưa cùng ngày, đồng đội nghiêng mình vĩnh biệt anh Thạch Xiêm, người Khmer đã anh dũng hy sinh để bảo vệ đồng đội và Công binh xưởng 18. Thời kháng chiến chống Mỹ, Mo So tiếp tục là căn cứ vững chắc của Huyện ủy Hà Tiên. Đây cũng là điểm chốt quan trọng trên tuyến đường 1C chi viện vũ khí từ bắc vào nam, thông qua tỉnh Kampốt (Vương quốc Campuchia) về vùng U Minh Thượng. Giữa tháng 7/1969, các cơ quan của Hà Tiên chuyển về Mo So. Tháng 7/1970, địch bao vây miệng núi Mo So. Chúng rải chất hóa học, Mo So từ một mầu xanh của núi rừng chỉ còn trơ đá. Nhiều chiến sĩ hy sinh phải mang ra chân núi Mo So chôn cất. Không lùi bước trước quân thù, ý chí của lực lượng ta khi ấy như ngọn núi Mo So, sừng sững, hiên ngang. Từ tháng 7/1969 đến tháng 4/1970, tại chiến trường Mo So, quân ta tiêu diệt hơn 4.000 tên địch, phá hủy 80 xe tăng, bắn rơi 10 máy bay. Chiến thắng Mo So góp phần cùng thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Theo các nhà khảo cổ học Việt Nam, núi Mo So có hơn 20 hang lớn nhỏ, có những hang rất lớn chứa hàng nghìn người. Theo tư liệu khảo cổ học Việt Nam, Mo So và nhiều núi đá vôi khác ở huyện Kiên Lương được hình thành vào khoảng 240 triệu năm trước. Phần chân núi còn để lại dấu ngấm nước biển lõm sâu vào vách đá, là dấu tích khoảng 4.000 đến 5.000 năm trước Công nguyên. Mo So tuyệt đẹp và thơ mộng. Bảo vệ, tôn tạo và phát triển du lịch Di tích lịch sử và thắng cảnh Mo So không chỉ là bảo vệ cảnh sắc thiên nhiên, sự phát triển bền vững của một hệ sinh thái núi đá vôi, hang động, mà còn là bảo vệ chiến tích của cha anh. Nơi đây đã từng bao bọc, che chở những người con anh dũng đã góp phần làm nên lịch sử. Nguồn: Du lịch Kiên Giang
Kiên Giang 2264 lượt xem
Khu Di tích lăng Mạc Cửu thuộc quần thể đền thờ và lăng mộ dòng họ Mạc mà khởi đầu là Mạc Cửu, người đã có công khai phá mảnh đất Hà Tiên hơn 300 năm trước. Di tích nằm trên đường Mạc Cửu dưới chân núi Bình San, thuộc phường Bình San, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Theo sử sách ghi lại, Mạc Cửu là người Quảng Đông, Trung Quốc. Năm 1680, khi đến Hà Tiên, ông đã dừng lại ở đây để xây dựng và phát triển vùng đất này. Đến tháng 8 năm 1708, Mạc Cửu đã dâng vùng đất Hà Tiên cho nhà Nguyễn và được Chúa Nguyễn là Phúc Chu chấp thuận và phong làm “Tổng trấn Hà Tiên”. Mặc dù đã dâng Hà Tiên cho nhà Nguyễn, nhưng Chúa Nguyễn Phúc Chu vẫn cho Mạc Cửu quyền tự chủ tại vùng đất này, duy trì truyền thống cha truyền con nối như một tiểu vương. Trải qua 7 đời nắm quyền, dòng họ Mạc đã biến vùng đất Hà Tiên hoang sơ thành một trong những địa điểm buôn bán sầm uất nhất trong khu vực. Khu di tích lăng Mạc Cửu gồm: đền thờ, lăng Mạc Cửu cùng với 59 lăng mộ lớn nhỏ khác là những người thân tộc và gắn bó với sự nghiệp dòng họ Mạc trên vùng đất Hà Tiên. Lăng và đền thờ Mạc Cửu được xây dựng từ năm 1735 đến năm 1739. Mặt tiền đền quay về hướng Đông, nơi có núi Tô Châu với dòng lưu thủy Đông Hồ, lưng tựa vào vách núi hình vòng cung vững chãi, bên trái là núi Bát Giac; bên phải là Đại Kim Dự. Đền thờ họ Mạc có tên gọi là Trung Nghĩa Từ, dân địa phương quen gọi là miếu Ông Lịnh. Trước đền thờ là 2 ao lớn nở đầy hoa sen mà trước kia Mạc Cửu đã cho đào để lấy nước ngọt cho dân trong vùng dùng trong mùa khô hạn. Lăng được xây dựng theo kiến trúc ba gian với cổng Tam Quan phía trước, hai bên là hai câu đối bằng chữ Hán Nôm do nhà Nguyễn ban tặng: Nằm bên phải đền thờ là nhà tiền hiền thờ những người trước ông Mạc Cửu đã đến Hà Tiên, bên trái là nhà hậu hiền thờ những người đến sau ông. Ngay chánh điện đền có biển thờ với bốn đại tự: “Khai trấn trụ quốc”. Đây là sự ghi nhận công đức của dòng họ Mạc trong công cuộc khai phá, mở mang bờ cõi nước Việt về phía nam. Bên trong chính điện, bàn thờ ở giữa thờ ngai vị của ông Mạc Cửu và các hậu duệ của ông. Bên phải là bàn thờ các quan văn, quan võ dưới thời họ Mạc, bên trái là bàn thờ các phu nhân của dòng họ. Từ đền thờ quay ra, phía tay trái sẽ có bảng chỉ dẫn lên lăng mộ Mạc Cửu cùng dòng họ nhà Mạc. Với hơn 60 ngôi mộ cổ được chia thành 4 khu riêng biệt: khu 1 là lăng mộ các tiểu vương dòng họ Mạc, khu 2 là lăng mộ các phu nhân, khu 3 là lăng mộ các quan và khu 4 là lăng mộ các thành viên khác của dòng họ Mạc. Ngôi mộ lớn nhất của Mạc Cửu được xây dựng theo lối kiến trúc Trung Hoa, hình bán nguyệt khoét sâu vào triền núi, chỗ chôn hài cốt đúc vôi và nước “ô dước” ra dáng con trâu nằm. Hai bên tả hữu là hai vị tướng, quanh mộ xây hai con rồng quấn vào nhau. Bậc thềm cẩn bằng đá xanh Quảng Tây, nhiều tảng đá dài hơn 3m. Phía dưới lăng Mạc Cửu là mộ bà Nguyễn Thị Hiếu Túc, vợ Mạc Thiên Tứ (trái) và mộ Mạc Tử Hoàng (phải) rồi đến mộ Mạc Thiên Tứ (cũng giống như mộ cha nhưng bày trí khiêm nhường hơn). Tuy trải qua gần 300 năm, nhưng đền thờ, lăng mộ dòng họ Mạc vẫn giữ được nguyên vẹn những nét kiến trúc của thời kỳ đầu. Nguồn: Du lịch Kiên Giang
Kiên Giang 2521 lượt xem
Nhà tù Hà Tiên tọa lạc tại cuối đường Mạc Công Du, thuộc phường Bình San, thành phố Hà Tiên. Nhà tù Hà Tiên nằm trên một khu đất bằng phẳng hình chữ nhật chiều dài 30m, chiều rộng 25m, bao quanh là bức tường bằng đá kiên cố, bốn gốc có bốn tháp canh. Nhà tù được xây dựng vào năm 1897 bởi thực dân Pháp. Lúc đầu, nhà tù được gọi là Khám Hà Tiên, sau đó đổi tên thành Nhà lao Hà Tiên. Đây vừa là nơi tố cáo tội ác thực dân Pháp, chúng đã giam hang ngàn người Việt Nam yêu nước, tra tấn đánh đập dã man; đây cũng là nơi ra đời một chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam Bộ từ năm 1930. Lúc mới xây dựng nhà tù chưa có tường cao kiên cố, chỉ có một hàng rào thấp bằng cây. Năm 1940 – 1942 vì số tù nhân đông và để ngăn chặn vượt ngục nên tường rào được xây kiên cố, chỉ có một lối duy nhất là cổng chính, cánh cổng bằng sắt nặng và chắc. Từ cổng chính vào đến nhà giam là 8m, bờ rào ba mặt còn lại cách nhà giam 3m. Ba dãy nhà giam và dãy nhà bếp phía sau tạo thành một khu hình chữ nhật. Tất cả các dãy đều có tường xây gạch ốp đá, nền gạch tàu, mái lợp ngói. Phía tay trái là phòng của lính canh, kế phòng lính là nơi làm việc của quản ngục và cũng là phòng hỏi cung, tra tấn và để dụng cụ tra tấn. Phía tay phải là một phòng giam không có cửa sổ. Các tù nhân mặc quần áo màu xanh, sau lưng có in chữ P (viết tắt của chữ Prison); khi đi làm mặc quần ngắn và đội nón lá. Những người trốn tù sẽ bị xiềng chân và bị cạo một nửa mái tóc bôi dầu hắc lên. Những người đấu tranh (họ gọi là nổi loạn) thì bị giam cách biệt trong phòng nhỏ. Cho đến nay chưa có số liệu cụ thể, nhưng vào đầu năm 1945, khi Nhật đảo chính Pháp thì nhà tù Hà Tiên giải phóng khoảng 500 tù nhân. Ở đây có nhiều cực hình tra tấn dã man như: tra điện, kẹp điện vào mang tai, cổ tay, cổ chân… cho điện giật rồi xối nước lạnh. Có một phòng hỏi cung để đầy dụng cụ tra tấn, đánh đập để uy hiếp ép cung. Không chỉ tra tấn, bọn chúng còn bắt tù nhân phải lao động rất vất vả. Trước năm 1930 nhà tù không có nhà vệ sinh, nên mỗi ngày chúng cử hai tù nhân khiêng thùng ra sông đổ. Tù nhân lao dịch còn bị đánh đập, ăn uống cực khổ, chỉ toàn cá ươn và bí rợ. Từ tháng 5 năm 1930, nhà tù Hà Tiên có thêm tù nhân chính trị. Và cũng từ đó, chi bộ Cộng sản được thành lập tại đây. Giữa năm 1930, tại khám Hà Tiên nổ ra cuộc đấu tranh của tù chính trị do chi bộ nhà tù trực tiếp lãnh đạo. Tù nhân tuyệt thực, đòi được chăm sóc đời sống, đòi giảm giờ lao động khổ sai, cải thiện chế độ ăn uống… Đội tự vệ của nhà tù được thành lập, họ lấy dụng cụ lao động đối phó với bọn cai ngục. Tuy cuộc đấu tranh bị đàn áp nhưng gây tiếng vang lớn, nhiều đồng bào đã tỏ lòng kính phục những người Đảng viên Cộng sản. Trong thời gian đi lao động ở Núi Lăng, tù chính trị được tiếp xúc với bên ngoài. Chi bộ nhà tù đã tuyên truyền quần chúng giác ngộ cách mạng, tập hợp những quần chúng tích cực, có đủ phẩm chất thành lập một chi bộ Đảng, lấy tên là Đảng bộ Cộng sản Hà Tiên gồm năm người. Nhà tù là một chứng tích lịch sử quan trọng, ghi dấu những tội ác của thực dân Pháp và tinh thần yêu nước bất khuất của dân tộc Việt Nam. Ngày 5 tháng 9 năm 1989, nhà tù Hà Tiên đã được công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia. Nguồn: Du lịch Kiên Giang
Kiên Giang 2435 lượt xem
Chùa Phật Lớn là ngôi chùa lâu đời của người khmer có pháp danh Ut Đôn Men Chi, hiện tọa lạc tại số 151 đường Quang Trung, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá. Chùa đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia ngày 28/12/2001. Chùa Phật Lớn là một trong 73 chùa Phật giáo Nam tông của tỉnh Kiên Giang được hình thành và phát triển khá sớm vào khoảng năm 1504 – thế kỷ 16. Sau ba lần thay đổi vị trí, từ năm 1884 đến nay, ngôi chùa có vị trí hiện tại. Hơn 100 năm qua, chùa không chỉ là nơi thờ phật, nơi tu hành của các vị sư sãi mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer, là nơi thể hiện sự gắn bó keo sơn giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong sinh hoạt, học tập, trong lao động, trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ bao đời nay. Đặc biệt, có một sự kiện lịch sử đã được ghi vào trang sử vàng, đó là vào ngày 11/8/1848, quân và dân Kiên Giang phối hợp với lực lượng quân khu 4 tổ chức một trận đánh quy mô ở Sóc Xoài, tiêu diệt nhiều tên địch và thu nhiều vũ khí. Đây là trận thắng lớn thứ hai sau trận Tầm Vu ở đồng bằng sông Cửu Long ở giai đoạn này trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Để trả đũa cho trận thua nhục nhã này, 17 giờ chiều cùng ngày, bọn Pháp đã đưa 32 chiến sĩ cách mạng đang bị chúng giam cầm tại Khám Lớn, Rạch Giá đến chùa Phật Lớn, dùng súng nổ hàng loạt vào các chiến sĩ cách mạng, sau khi giết chết 32 người, chúng còn đòi bắn bể đầu các vị sư trong chùa và lục soát khắp nơi. Khi chúng đi khỏi, các vị sư đã chôn cất 32 chiến sĩ cách mạng ngay phía sau ngôi chùa. Hiện nay, nơi này đã dựng bia căm thù để mọi người không quên tội ác của giặc. Chùa Phật Lớn không những có giá trị về kiến trúc nghệ thuật mà còn có giá trị về lịch sử. Đối với người Khmer, ngôi chùa là không gian thiêng liêng duy nhất nên dù cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng bà con vẫn góp công, góp của xây dựng, trùng tu, sửa chữa ngôi chùa khá khang trang. Chùa có kiến trúc đặc sắc thể hiện rõ qua các mảng hoa văn trang trí, phù điêu, tượng phật, tất cả đều được sơn son thếp vàng: tượng Ma Ha Prưm bốn mặt, tượng các chim thần Ma Ha Krút, tượng nữ thần, rồng hổ phù, tượng mãnh thú, tượng khỉ… Nguồn: Du lịch Kiên Giang
Kiên Giang 1986 lượt xem
Chùa Láng Cát tọa lạc tại số 325 đường Ngô Quyền, thuộc Khu Phố 1, phường Vĩnh Lạc, thị xã Rạch Giá, Kiên Giang. Đây là ngôi chùa thuộc hệ phái Nam Tông của người Khmer. Chùa Láng Cát từng có tất cả 31 đời trụ trì và nhiều tên gọi khác nhau. Chùa được xây dựng vào năm 1412, lúc đầu có tên là Angkor Chum do trụ trì là người Campuchia. Sau đó, chùa được đổi tên thành chùa Láng Cát, vì tọa lạc trên vùng đất cao rộng lớn thuộc phía Đông Nam của Rạch Giá. Vào tháng 5/2009 chùa Láng Cát cùng với Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Kiên Giang cùng hội đoàn kết các sư yêu nước đã tổ chức khánh thành chánh điện. Tới năm 1997 Ban quản trì cùng Phật tử kêu gọi phát tâm hùn phước đóng góp xây dựng và tới 2003 xây dựng được phần nền, móng cùng với cột bê tông. Chùa Láng Cát có kiến trúc mang đậm dấu ấn Khmer. Khu vực chánh điện của chùa được bài trí trang nghiêm, bệ thờ tượng Phật cùng viên ngọc xá Lợi do Hòa thượng Hộ Tông thỉnh từ Ấn Độ vào năm 1957. Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Tôn trí tầng cao nhất là tượng đức Phật Thích Ca thành đạo, bên dưới là các tượng đức Phật trì bình khất thực, đức Phật cứu độ chúng sanh. Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Nguồn: Giáo hội phật giáo tỉnh Kiên Giang
Kiên Giang 2096 lượt xem
Đình Vĩnh Hoà là một di sản lịch sử văn hoá đã tồn tại gần 300 năm, là ngôi đình cổ nhất của tỉnh Kiên Giang, là nơi sinh hoạt văn hoá thuần tuý của nhân dân vùng Rạch Giá từ lúc con người đến đây khai hoang lập ấp. Đình Vĩnh Hoà thường gọi là đình Vĩnh Huề, tọa lạc tại số 61 đường Nguyễn Hùng Sơn, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Đình được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ 18 với tên gọi đầu tiên là miếu Hội Đồng, miếu thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh, vị Tôn Thần thời Trung Hưng mà nhân dân cho là rất linh ứng. Năm 1883, ngôi miếu cổ Hội Đồng được xây dựng lại to hơn thành đình. Đình Vĩnh Hòa tự hào được triều đình Huế hai lần phong sắc: thời vua Minh Mạng (1832) và thời vua Bảo Đại (1934). Trong lịch sử chống Pháp xâm lược đầu thế kỷ 19, đình Vĩnh Hoà là điểm khao quân của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực sau khi hạ đồn Rạch Giá (16/6/1868). Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa 1932-1945, đình Vĩnh Hoà là điểm tựa của nhân dân Rạch Giá chống áp bức bóc lột, là một trong những nơi thành lập chi Bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên của địa phương, là cái nôi hoạt động cách mạng bí mật của chi Bộ Đảng Cộng Sản, là địa chỉ đỏ tiếp nhận và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê Nin vào tỉnh Rạch Giá - Hà Tiên. Trải qua nhiều cuộc biến đổi lịch sử, Đình Vĩnh Hoà cũng đã từng bước được tôn tạo lại. Đình có giá trị lớn trên 2 mặt lịch sử và sinh hoạt văn hoá cổ truyền, là nơi tổ chức hội hè, vui chơi như hát bội, múa lân, múa rồng… là công trình nghệ thuật độc đáo của nhân dân lao động nhằm gìn giữ phong tục, tập quán của người Việt trong thời kỳ phát triển lịch sử văn hoá, đánh dấu bước chân của người Việt đến đây mở mang bờ cõi. Đình Vĩnh Hoà được công nhận là di tích Lịch sử cấp quốc gia ngày 5 tháng 9 năm 1989 Nguồn: Du lịch Kiên Giang
Kiên Giang 2938 lượt xem
Di tích Chùa Tam Bảo nằm trên đường Sư Thiện Ân, Thành Phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, chùa Tam Bảo được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia năm 1998. Lúc đầu, chùa Tam Bảo được dựng bằng gỗ, lợp lá. Năm 1917, hòa thượng Trí Thiền trùng kiến ngôi chùa. Lịch sử phát triển của chùa Sắc Tứ Tam Bảo gắn với sự nghiệp hoằng pháp của hòa thượng Thích Trí Thiền, thế danh Nguyễn Văn Đồng, vì vậy chùa có tên gọi là chùa Ông Đồng. Từ năm 1940, hòa thượng Trí Thiền, sư Thiện Chiếu, sư Thiện Ân lấy chùa Tam Bảo thành địa điểm liên lạc và là nơi cất giấu vũ khí tự tạo cùng tài liệu, truyền đơn chuẩn bị cho khởi nghĩa Nam Kỳ. Tháng 6-1941, do bị chỉ điểm, Pháp khám xét chùa, hòa thượng Trí Thiền, sư Thiện Ân bị Pháp bắt. Ra Tòa đại hình, hòa thượng Trí Thiền bị kết án 5 năm đày Côn Đảo, sư Thiện Ân bị kết án tử hình. Tại Côn Đảo, năm 1943, hòa thượng Trí Thiền tuyệt thực phản đối chế độ lao tù khắc nghiệt và mất. Tương truyền chùa Tam Bảo được vua Gia Long ban sắc phong “Sắc Tứ Tam Bảo Tự”. Tấm sắc phong được cho là bị mất trong thời kỳ bị giặc Pháp đàn áp những năm thập niên 30-40 thế kỷ 20. Chùa Tam Bảo có kiến trúc tổng thể độc đáo, bố cục gọn gàng kết hợp hài hòa chất liệu gạch, gỗ, đá. Không gian yên tĩnh, trang nghiêm. Chùa có ba tầng mái ngói, được lợp bằng ngói ống. Những hàng cột gỗ đen to, thân cột phình ra được đục đẽo thành hình bát giác trông vững chắc. Chánh điện được chia làm ba gian, mỗi gian có bàn thờ. Các bao lam bằng gỗ được chạm hình nổi, sơn son thếp vàng các hình rồng phượng, hoa lá, chim muông đầy tính nghệ thuật, tạo ấn tượng linh thiêng cho người xem. Chùa Tam Bảo có nhiều pho tượng đẹp và thể hiện trình độ cao về kỹ thuật điêu khắc. Ngày nay, chùa được nhiều người dân, khách du lịch tìm về chiêm bái, vọng cảnh mỗi khi có dịp đến Thành Phố Rạch Giá. Nguồn: Báo Kiên Giang online
Kiên Giang 1975 lượt xem
Đình thần Nguyễn Trung Trực hay Đền thờ Nguyễn Trung Trực tọa lạc ở phía Tây trung tâm thành phố Rạch Giá, là ngôi đình thờ Nguyễn Trung Trực sớm nhất và lớn nhất trong số chín ngôi đền thờ ông trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, hiện nằm ở số 14 đường Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Nguyễn Trung Trực tên thật là Nguyễn Văn Lịch, sinh năm 1838, tại Bình Nhật, huyện Cửu An, phủ Tân An (nay thuộc xã Bình Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An). Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, ông tham gia và lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp. Ông bị thực dân Pháp bắt và bị chúng xử chém tại Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang, khi ông mới 30 tuổi. Ngày 10/12/1861, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân lập nên chiến công vang dội, đốt cháy tàu Espérance của giặc Pháp trên vàm Nhật Tảo, tiêu diệt nhiều tên địch. Sau chiến công Nhật Tảo, Nguyễn Trung Trực được triều đình phong tặng chức quản cơ, đây là bậc võ quan được xếp vào hàng chánh tứ phẩm. Cuối tháng 6/1867, thực dân Pháp chiếm Vĩnh Long, tiếp đó là các tỉnh An Giang và Hà Tiên. Lúc này, Nguyễn Trung Trực cùng một số nghĩa quân về Hòn Chông xây dựng căn cứ, chuẩn bị lực lượng tiếp tục tấn công địch. Sau những chiến công vang dội của Nguyễn Trung Trực, giặc Pháp và tay sai điên cuồng truy tìm ông, chúng treo giải thưởng cao cho ai bắt hoặc giết được ông. Độc ác hơn, chúng bắt giữ mẹ ông hòng gây áp lực, buộc ông đầu hàng; đồng thời chúng tăng cường lực lượng trấn áp nghĩa quân. Không khuất phục kẻ thù xâm lược, Nguyễn Trung Trực và nghĩa quân đã rút ra đảo Phú Quốc để bảo toàn lực lượng, xây dựng căn cứ tiếp tục chống Pháp. Ngày 19/9/1868, giặc Pháp đưa hơn 100 lính Mã tà ra Phú Quốc, tấn công Hàm Ninh; sau đó chúng tăng cường thêm viện binh tấn công Dương Đông. Chúng bao vây, khủng bố, khống chế gắt gao nhân dân trên đảo hòng cô lập và triệt hạ nghĩa quân. Trước cảnh đồng bào bị đàn áp, khảo tra, vũ khí của nghĩa quân cạn kiệt, thế giặc lại mạnh, Nguyễn Trung Trực đã quyết định hy sinh bản thân mình để bảo toàn lực lượng cho nghĩa quân và tính mạng cho đồng bào. Cảm phục và tôn kính người anh hùng của dân tộc, sau khi Nguyễn Trung Trực bị kẻ thù hành hình, đồng bào đã lập bài vị bí mật thờ ông tại Lăng Cá Ông. Ban đầu, nơi đây chỉ là một ngôi đền nhỏ bằng gỗ, mái lợp lá; sau nhiều lần sửa chữa, Đền thờ Nguyễn Trung Trực ngày càng khang trang hơn. Năm 1987, di tích Đình và Lăng mộ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã được Bộ Văn hóa cấp bằng công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đình Nguyễn Trung Trực nằm bên bờ sông Kiên hướng ra biển, phía trước có cột cổng lớn ghi tên tự ngôi. Hiện nay, không chỉ ở thành phố Rạch Giá, mà nhiều nơi trong tỉnh Kiên Giang cũng có hàng chục ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực, như đền thờ ở huyện Hòn Đất, đền thờ ở huyện Châu Thành, đền thờ ở huyện Kiên Lương, đền thờ ở huyện Phú Quốc… Một số tỉnh như Long An, An Giang, Cà Mau, Bình Định… đều có đền thờ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Hằng năm, vào ngày 26, 27, 28 tháng 8 âm lịch hàng năm, nhân dân trong tỉnh và các địa phương trong cả nước lại hội tụ về thành phố Rạch Giá để tưởng nhớ Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Sở Văn hóa và Thể thao Kiên Giang
Kiên Giang 3192 lượt xem
Chùa Phước Hội được người dân địa phương gọi với tên thân thương là chùa Bà Lê toạ lạc tại xã Hội An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Sở dĩ có tên gọi này bởi ngôi chùa được xây dựng trên phần đất của bà Lê, một người Việt gốc Hoa sống tại địa phương. Chùa Bà Lê theo hệ phái Đại thừa, được xây dựng vào cuối năm 1897, bằng tre, lá đơn sơ làm nơi tín ngưỡng của người dân địa phương. Chùa Phước Hội thờ Phật A Di Đà, Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật Di Lặc, Quan Thế Âm bồ tát, Đại Thế Chí bồ tát, Địa Tạng bồ tát... Không chỉ thờ Phật, tại chính điện chùa Bà Lê còn thờ các vị: Ngọc Hoàng đại đế, Nam Tào, Bắc Đẩu, Tứ đại Thiên Vương… Ngoài ra, trong chùa còn có khu vực thờ những người có công, hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ đất nước. Không chỉ là nơi thờ tự, chùa Phước Hội còn là “địa chỉ đỏ”, ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử của địa phương. Đặc biệt, ngay từ những năm đầu thành lập, chùa là nơi tụ họp của nhân dân đấu tranh chống lại quân thù. Trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ của quân và dân tỉnh An Giang, chùa Phước Hội là một trong những cơ sở cách mạng vững chắc. Từ năm 1920-1965, khi hòa thượng Thích Quảng Đạt về làm trụ trì tại chùa, đã có công lớn trong công tác, hoạt động cách mạng như: Tiếp tế lương thực, vũ khí, đạn dược và nuôi chứa nhiều cán bộ cách mạng cấp tỉnh, huyện. Trong những năm 1945-1946, chùa Bà Lê là cơ sở Văn phòng của Ủy ban Hành chánh Kháng chiến; là nơi tổ chức thanh niên tập luyện quân sự chống Pháp. Đây còn là cơ sở chế tạo vũ khí thô sơ và in ấn truyền đơn, tài liệu... Chùa Bà Lê là nơi đào tạo nhiều thế hệ quần chúng yêu nước. Nhiều cán bộ địa phương đã trưởng thành, đóng góp tích cực vào công cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước. Đặc biệt, nhiều cán bộ xuất thân từ ngôi chùa đã đóng góp xương máu và cả tính mạng cho Tổ quốc. Nổi bật trong đó có chị Huỳnh Thị Hưởng, liệt sĩ được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tấm gương chiến đấu và hy sinh anh dũng của chị Huỳnh Thị Hưởng đã làm sáng ngời truyền thống vẻ vang cho quê hương, xứ sở. Đồng thời làm sáng lên tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân An Giang. Ngày nay, trên quê hương Hội An có một ngôi trường được xây dựng khang trang mang tên Huỳnh Thị Hưởng, lưu dấu cho các thế hệ học sinh nhớ đến tấm gương bất khuất của người nữ du kích anh hùng. Ngày 12/12/1986, Bộ Văn hóa công nhận chùa Bà Lê (Phước Hội Tự) là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Đặc biệt, hàng năm, vào dịp kỷ niệm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chùa đón tiếp nhiều cán bộ, chiến sĩ đến dâng hương, thành tâm kính bái trước anh linh của các anh hùng liệt sĩ được thờ phụng trong chùa. Qua đó, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống cách mạng trên mảnh đất anh hùng. Nguồn: Báo An Giang online
An Giang 2555 lượt xem
Chùa Giồng Thành hay còn gọi là Long Hưng Tự thuộc xã Long Sơn, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Chùa được hòa thượng Trần Minh Lý xây dựng lần đầu vào năm 1875 bằng vật liệu tre lá đơn sơ. Đến năm 1927, Hòa thượng Chánh Hường (1879 – 1947), là người xã Long sơn, nhận thấy cửa thiền ngày càng đông tín đồ mà chùa thì quá cũ kỹ và chật hẹp, nên đã xin với nhà cầm quyền Pháp, cho đi quyên góp để xây cất lại ngôi thờ Phật. Năm 1970, Hòa thượng Chơn Như (1925 – 1972) cho trùng tu lại chùa theo kiến trúc kiểu Ấn Độ. Và đây là lần trùng tu lớn nhất, và tồn tại cho đến ngày nay. Về tên gọi chùa Giồng Thành, theo một số tài liệu cho biết là xuất phát từ chỗ chùa được xây trên nền đất của hào thành triều Nguyễn. Nhìn từ bên ngoài, chùa mang dáng dấp kiến trúc Ấn Độ với mái tháp có hai tầng hình phễu, trang trí nhiều họa tiết hoa văn trang nhã nhưng về đại thể, chùa Giồng Thành là khối kiến trúc hài hòa theo phong cách Á – Âu với lối xây dựng theo hình chữ “song hỷ”, gồm 3 gian, mái lợp bằng ngói móc, trên cột chánh điện có vẽ hình rồng. Ở chánh điện có nhiều pho tượng cổ như tượng đức Phật A Di Đà, bộ tượng Thập Điện Minh Vương…Hai ngôi tháp mộ lớn ở chùa là tháp của Hòa thượng Đạt Điền (đời 38) và Hòa thượng Chơn Như (đời 40). Ngoài vẻ uy nghiêm, chùa Giồng Thành còn được nhiều người biết đến như địa chỉ đỏ của phong trào yêu nước, chống giặc ngoại xâm. Tại đây vào những năm đầu thập niên 20 của thế kỷ 20, tổ chức Kèo Vàng, Kèo Xanh của Phan Xích Long đã nhóm họp để thu hút người yêu nước chống thực dân Pháp, mở đầu cho hàng loạt hoạt động yêu nước. Đây còn là nơi cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc – thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh – truyền bá chủ nghĩa yêu nước chân chính cho đồng bào (1928 – 1929). Trong những năm tháng chống Mỹ hào hùng, chùa Giồng Thành tiếp tục là cơ sở của Tỉnh ủy Châu Đốc, Huyện ủy Tân Châu và là điểm giao liên của Khu 8, Trung ương cục miền Nam. Đặc biệt nơi đây từng là chỗ trú ngụ an toàn cho nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước trong những năm tháng kháng chiến đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụỵ nhào như: Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt…. Hàng năm vào các ngày rằm tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Mười (âm lịch), khách thập phương đến viếng và lễ chùa rất đông. Bên cạnh là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa, di tích chùa Giồng Thành còn gắn liền với những dấu ấn lịch sử, khi chùa đã từng là nơi ẩn náu của nhiều chiến sĩ cách mạng và là nơi tổ chức các hoạt động chính trị, chống lại thực dân Pháp. Nhờ những công lao to lớn mà vào ngày 12/12/1986, di tích chùa Giồng Thành đã được Bộ văn hoá, thể thao và du lịch công nhận là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Du lịch an Giang
An Giang 1829 lượt xem
Chùa Hòa Thạnh hay Hòa Thạnh Cổ Tự, dân gian thường gọi là chùa Cây Mít tọa lạc tại xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Chùa Hòa Thạnh do nhân dân thôn Nhơn Hưng xây dựng từ năm 1847, ban đầu rất đơn sơ bằng cây tạp, vách lá, mái tranh. Năm 1913, chùa bị cháy, nhân dân đóng góp để xây dựng lại chùa bằng danh mộc, vách ván, mái lợp ngói âm dương. Năm 1925, hòa thượng Huỳnh Hồng Diệp cho xây dựng lại chùa khang trang như hiện nay. Tổng diện tích xây dựng chùa khoảng 500m2, kiến trúc gồm 4 bộ nóc, cột gỗ tròn, vách xây hồ vôi ô dước trộn đá trứng. Chùa Hòa Thạnh được xây theo bố cục kiến trúc thống nhất. Có hai mái chính ở đằng trước và đằng sau, và hai mái bên, được dựng trên nền cao 0,5 m, các mái lan xuống thấp với các đầu đao ở bốn góc cong lên. Chính diện chùa là ao Liên Trì được xây dựng vào năm 2009. Trên ao có lối đi dẫn đến tượng Phật Bà Quan Âm cưỡi rồng rất đẹp. Bên trái là đền thờ Phật Di Lặc, bên phải chùa là hai bảo tháp. Trong chính điện, chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ có giá trị nghệ thuật độc đáo. Trước chùa Hòa Thạnh hiện có một tấm bia tưởng niệm có hình quốc huy Việt Nam, ở giữa quốc huy là một tấm bảng ghi ngày tháng năm cụ Nguyễn Sinh Sắc đến chùa. Nghệ thuật nổi bật của ngôi chùa là các tượng thờ, hầu hết đều bằng gỗ mít do nghệ nhân tại địa phương đã khéo tay tạc 19 loại tượng, cao từ 0,4m đến 1,4m. Theo một số vị cao niên trong làng kể lại, nơi đây toàn rừng rậm, cây cối mọc um tùm, và có rất nhiều gỗ mít. Thấy vậy, các vị sư mới dùng gỗ mít cất chùa và chạm khắc tượng để thờ cúng. Năm 1913, trong lúc chùa bị cháy người dân ở gần chùa cùng các vị tu hành kịp khiêng, vác các pho tượng ra khỏi chùa. Cho nên, nhà chùa mới giữ được các pho tượng gỗ quý đến ngày nay. Riêng pho tượng Ngọc Hoàng thì bị cháy nám, nay còn dấu tích để lại. Các tượng Phật được thể hiện kỹ thuật tạo hình khá chính xác theo từng khuôn mẫu, tướng mạo trang nghiêm, y trang tươm tất. Từ các chi tiết tay cầm bửu bối, đầu đội mão, dáng đứng trên bục hoặc ngồi cỡi thú, đề thính hay tòa sen… đều được phác họa rất chuẩn mực, đường nét sắc sảo, với màu sắc sơn son thếp vàng rất rực rỡ. Ngoài giá trị về kiến trúc nghệ thuật, chùa Hòa Thạnh còn là nơi cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh) đã từng ở. Sau khi từ quan, để tránh sự theo dõi của mật thám và chính quyền thực dân Pháp, cụ Sắc đã đi qua nhiều tỉnh ở Nam Bộ, trong đó có An Giang. Từ năm 1921 đến 1923, cụ thường lui tới chùa Cây Mít (tên gọi chùa Hòa Thạnh phổ biến lúc bấy giờ), lúc đó chùa do hòa thượng Huỳnh Hồng Diệp, đồng thời là một sĩ phu yêu nước, trụ trì. Hòa Thạnh được sử dụng như một địa điểm gặp gỡ, liên lạc giữa cụ Phó Bảng với các sĩ phu khắp các nơi. Và cũng từ chùa Hoà Thạnh, tinh thần yêu nước, sự bất hợp tác với thực dân Pháp và chính quyền tay sai đã có ảnh hưởng rộng lớn tới nhân dân trong vùng. Trong những kháng chiến chống Mỹ cứu nước và bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc, chùa Hòa Thạnh là cơ sở vững chắc của cách mạng và bộ đội. Khuôn viên nhà chùa có hầm bí mật che giấu cán bộ và tổ chức hoạt động. Do vậy, người dân vùng Bảy Núi coi chùa Cây Mít – Hòa Thạnh là công trình văn hóa và là di tích ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử vẻ vang trong chiến đấu, bảo vệ và xây dựng quê hương. Ngày 4-8-1992, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Hòa Thạnh Cổ Tự là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 1943 lượt xem
Chùa Ông Bắc còn gọi là Bắc Đế Miếu – Hội quán đầu tiên của người Hoa ở An Giang nằm trên đường Phạm Hồng Thái, bên bờ sông Long Xuyên, thuộc phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Bắc Đế Miếu được xem như cơ sở thờ tự của những người Hoa di cư từ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) đến sinh cơ lập nghiệp tại An Giang. Họ cùng nhau xây dựng Hội quán, thực chất là văn phòng hành chính để làm hội sở liên lạc đồng hương, nhưng thường đưa thêm các tượng thần Bắc Đế, Thiên Hậu, Ngọc Hoàng, Quan Công vào thờ nên người Việt gọi là chùa. Như chùa Ông Bắc tức là thờ Bắc Đế. Hội quán này được xây dựng cách đây trên 100 năm, khi vùng đất này còn mang tên Đông Xuyên, sau đó thuộc thôn Mỹ Phước, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Kiên, tỉnh An Giang thời Nhà Nguyễn. Theo những người cao tuổi và căn cứ vào bia ký kể lại lịch sử chùa, thì ban đầu chùa khá đơn sơ. Đến năm Giáp Ngọ (1887), ông Quảng Thành Lợi và Hòa Mậu Xương là hai người Hoa giàu có trong vùng, đứng ra vận động đồng hương và người dân tín ngưỡng, đóng góp tiền của, khởi công sửa chữa lần thứ hai. Qua 4 năm xây dựng, đến năm Mậu Tuất (1891), chùa được hoàn thành và trở thành một công trình kiến trúc nghệ thuật đẹp và tiêu biểu của thành phố Long Xuyên. Đây là một công trình đặc thù lối Quảng Đông, màu vàng sậm kết hợp với đỏ và nâu, cùng hoa văn uốn lượn trên nóc mái ngói. Chùa đã được công nhận di tích lịch sử – văn hoá cấp quốc gia vào tháng 6 năm 1987. Nối liền với tiền sảnh và khánh thờ Bắc Đế là hai con đường đi vào song song nhau. Tiền điện- sân thiên tỉnh (còn gọi là giếng trời) được coi là khu vực giao lưu phong thủy, hai bên là hai cửa vòng tròn, qua Đông lang và Tây lang. Mái nóc chùa lợp ngói đại ống tráng men xanh, trên cạnh nóc chạm khắc hình bát tiên, voi, rồng, phượng, cá… cùng những bức phù điêu, hoa văn cổ, đẹp mang sắc thái nghệ thuật nhà Nguyễn pha lẫn kiến trúc nghệ thuật Trung Quốc. Người được thờ chính tại chính điện là Bắc Đế, tướng ngồi trông rất oai phong, đường bệ, đầu đội mão bình thiên đế vương, tay bắt ấn, tay cầm đao, chân đạp rắn, chân đạp linh xà… Trước khánh thờ Quan Công và khánh thờ bà Thiên Hậu có đôi Long trụ, bên trên khánh thờ là bộ Bát tiên kỵ thứ… Ngoài ra Phật Thích Ca, Địa Tạng bồ tát, Ngọc hoàng Thượng đế… cũng được tôn thờ tại đây. Tất cả tập họp thành một bản sắc văn hóa của người Hoa, đã hòa nhập lâu đời vào nền văn hóa Việt Nam. Nhìn chung, màu sắc trang trí nội thất Bắc Đế miếu được tô điểm rất rực rỡ nhưng hài hòa; các hoa văn, liễn đối, phong thủy đều được thể hiện bằng những đường nét nghệ thuật điêu khắc, chạm trổ rất đặc sắc, tinh xảo. Dù thời gian xây dựng đã hơn một thế kỷ và qua nhiều lần sửa chữa, nhưng di tích Bắc Đế miếu vẫn còn giữ được nguyên trạng. Nơi đây vẫn còn lưu giữ nhiều di vật quý báu trên 100 năm tuổi, như: Ba bia ký ghi lại công đức của những người đóng góp xây dựng, sữa chữa trong Hội quán; các chuông đồng (chuông đại hồng chung), đỉnh sắt, ba khám thờ (khánh); biển điêu khắc cõi tam giới với kiểu dáng kiến trúc thuần túy của dân tộc Hoa. Đặc biệt, chiếc chuông đúc bằng đồng đến nay vẫn được ngân vang hàng ngày. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 1715 lượt xem
Di tích Cột dây thép ở ấp Long Thuận, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Cột dây thép được thực dân Pháp xây dựng từ cuối thế kỷ 19, làm hệ thống thông tin liên lạc nối giữa 2 xã Long Điền và Tấn Mỹ, được bố trí nằm sát bên một nhánh sông Tiền. Thân cột được làm từ 4 cột trụ thép, gắn kết vào nhau tạo thành hình tháp, chóp vuông, với tổng chiều cao hiện nay hơn 30m, rất vững chắc. Mỗi chân bằng thép hình chữ (L) nối kết không đều, cách nhau khoảng 1,5m. Cột có bệ đá bao xung quanh, nằm ở vị trí giữa cổng chính vào khu di tích. Khu di tích có diện tích khoảng 3.000m2. Ngoài khuôn viên rộng lớn dành tổ chức kỷ niệm hay các sự kiện, bên trong còn có nhà truyền thống, lưu giữ những đồ vật, hình ảnh một thời của lãnh đạo và nhân dân địa phương. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời trên cơ sở thống nhất 3 tổ chức Đảng ở nước ta, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh). Đảng ra đời như ánh hào quang soi sáng con đường cho cách mạng Việt Nam, vận động thu hút đông đảo quần chúng nhân dân giác ngộ và đi theo con đường cách mạng của Đảng. Tại An Giang, tỉnh đã chọn Chợ Mới làm điểm phát triển tổ chức. Từ đây, chi bộ Đảng đầu tiên cũng được thành lập tại xã Long Điền vào tháng 4/1930. Lúc đầu gồm 3 đồng chí: Lưu Kim Phong, Bùi Trung Phẩm và Đoàn Thanh Thủy. Nhằm phát triển mạnh cơ sở, các đồng chí đã đi sâu vào vận động quần chúng nhân dân, thợ thủ công. Để qua mắt bọn tay sai và thực dân, lợi dụng phong trào bóng đá ở sân vận động Mỹ Long (xã Long Điền), các đồng chí đã bí mật truyền tay nhau để tuyên truyền Đảng Cộng sản sâu rộng. Chúc mừng sự kiện hình thành chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh An Giang, một lá cờ Đảng đã được treo trên đỉnh Cột dây thép, nhưng sớm bị thực dân Pháp lấy xuống. Mấy hôm sau, lá cờ Đảng thứ 2 được treo lên trong đêm khuya. Sáng hôm sau lá cờ đỏ “búa liềm” phất phơ tung bay như “Ánh hào quang trên dòng sông Tiền”, khiến kẻ thù vừa phẫn nộ và lo sợ, còn nhân dân vô cùng phấn khích. Từ đây, Cột dây thép chính là địa điểm mà Đảng ta đã tập hợp quần chúng nhân dân 2 lần biểu tình. Nhiều chi bộ Đảng cũng được thành lập và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành nhiều thắng lợi. Khu di tích hiện còn lưu giữ một số đồ vật trong nhà truyền thống. Với những dấu mốc son trong phong trào đấu tranh giành độc lập, Cột dây thép trở thành địa danh lịch sử cách mạng tiêu biểu và được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 9/1/1990. Nguồn: Báo An Giang online
An Giang 3387 lượt xem
Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành (xã Thạnh Mỹ Tây, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang). Đây là nơi gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp đấu tranh hào hùng của Quản cơ Trần Văn Thành cùng các nghĩa binh Gia Nghị trong cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa chống thực dân Pháp. Quản cơ Trần Văn Thành sinh ra trong một gia đình trung nông khá giả ở xã Bình Thạnh Đông (huyện Phú Tân), khi vừa lớn lên, ông được đi học chữ Nho. Ông học ít nhưng biết nhiều, sau đó ông được cụ thân sinh rước thầy về nhà dạy thêm võ nghệ, trước hết là để phòng thân và sau là có điều kiện giúp người dân lương thiện. Từ năm 1840, ông Trần Văn Thành nhập ngũ, đến năm 1845 ông làm Chánh quản cơ nên còn được gọi là Quản cơ Thành. Năm 1867, Pháp chiếm thành Châu Đốc (tỉnh An Giang). Không khuất phục giặc, ông kéo lực lượng dân binh về Bảy Thưa xây dựng căn cứ, phối hợp với nghĩa quân Nguyễn Trung Trực kháng Pháp trong vùng Long Xuyên, Rạch Giá. Sau khi Nguyễn Trung Trực bị Pháp xử tử (năm 1868), Quản cơ Trần Văn Thành quy tụ nghĩa quân khắp vùng miền Tây về Láng Linh xây dựng đồn lũy, rèn đao, đúc kiếm, đánh phá đồn bót giặc... Quân Pháp nhiều lần đánh vào Láng Linh - Bảy Thưa nhưng không đạt kết quả. Đầu năm 1873, Pháp cho người mang thư đến mua chuộc nhưng Quản cơ Trần Văn Thành cương quyết không chịu quy thuận. Không mua chuộc được ông, Pháp huy động lực lượng lính mã tà của Long Xuyên, Cần Thơ, Châu Đốc tấn công vào vùng Châu Phú. Từ ngày 19 đến 20/3/1873, Quản cơ Trần Văn Thành trực tiếp chỉ huy nghĩa quân chống giặc và hy sinh anh dũng. Nhân dân thương tiếc tôn gọi ông là Đức Cố Quản, lập đền thờ ở Láng Linh. Đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành, còn gọi là Bửu Hương tự hay dinh Đức Cố Quản được xây dựng vào năm 1897, là nơi tưởng nhớ Quản cơ Trần Văn Thành và nghĩa binh Gia Nghị đã hy sinh trong cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa (1867-1873) cũng là nơi tập hợp nhân dân và tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương yêu nước chống thực dân Pháp. Tháng 2/1913, nhân ngày giỗ của Quản cơ Trần Văn Thành và nghĩa binh Gia Nghị, ông Trần Văn Nhu tổ chức lễ khá lớn, nhân dân yêu nước quanh vùng và con cháu nghĩa binh tham dự rất đông. Thực dân Pháp lo sợ nên đã đến vây bắt và đốt đền thờ nhằm thủ tiêu vết tích của Quản cơ Trần Văn Thành. Đến năm 1938, ông Nguyễn Văn Tịnh là tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương đứng ra xây dựng lại đền thờ tại nền cũ, lợp ngói, xây tường gạch, cột gỗ, nền lát gạch khang trang và rộng rãi. Năm 1947, lực lượng cách mạng từ đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành đã tiêu diệt đồn thực dân Pháp tại xã. Để trả thù, thực dân Pháp tiến hành khủng bố và đốt đền thờ một lần nữa, chỉ còn lại 4 cây cột ở chánh điện. Đến năm 1952, nhân dân quanh vùng góp tiền xây dựng lại đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành khang trang như ngày hôm nay. Đền xây theo lối kiến trúc cổ kính, dạng chữ “tam” gồm có chánh điện, đông lang và tây lang, mái lợp ngói đại ống, trên nóc có tượng lưỡng long tranh châu, cột gỗ căm xe, tường gạch, nền lát gạch bông. Từ năm 1955-1975, đền thờ là cơ sở cách mạng của xã, nơi tiếp tế, liên lạc và nuôi chứa cán bộ hoạt động ở địa phương. Ngày 12/12/1986, đền thờ Quản cơ Trần Văn Thành được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Hàng năm, vào các ngày 20, 21 và 22 tháng 2 (âm lịch), chính quyền địa phương cùng đông đảo nhân dân tổ chức long trọng lễ giỗ theo nghi thức truyền thống. Nguồn: Báo An Giang online
An Giang 2006 lượt xem
Di Tích Nhà mồ Ba Chúc thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, An Giang đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia vào ngày 10/7/1980. Nơi đây lưu giữ hài cốt của những người dân vô tội bị sát hại và được xem là một bản cáo trạng về tội ác diệt chủng của Pôn Pốt, muôn đời còn ghi nhớ. Đồng thời khẳng định giá trị nhân văn, tính chính nghĩa và nghĩa vụ quốc tế cao cả của Quân tình nguyện Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng Campuchia khỏi chế độ diệt chủng và tái thiết đất nước. Vào đêm 30-4-1977, cùng lúc với 14 xã biên giới của tỉnh An Giang, Pôn Pốt đã xua quân tấn công, tàn sát đồng bào ta một cách man rợ. Đỉnh cao của tội ác này là cuộc thảm sát 3.157 người dân Ba Chúc từ ngày 18-4 đến 30-4-1978. Qua 12 ngày đêm bị bọn Pôn Pốt chiếm đóng, Ba Chúc bị dìm trong biển máu. Đi đến đâu chúng cũng cướp bóc tài sản, đốt phá nhà cửa các công trình công cộng; tàn sát đồng bào ta không kể già trẻ, nam nữ. Phần lớn nạn nhân bị bắn, chém, chặt đầu. Nhiều phụ nữ bị hãm hiếp, bị đóng cọc vào chỗ kín, trẻ em thì bị đâm lê trước khi giết chết hoặc xé đôi người, nắm hai chân đập đầu vào gốc cây… Chùa Phi Lai là một trong những địa điểm bị phá hủy nặng nề. Nơi đây, bọn Pôn Pốt giết gần 300 người dân vô tội. Dưới bàn thờ của chùa có 43 người lẩn trốn, cũng bị chúng dùng lựu đạn giết chết 40 người. Tại chùa Tam Bửu, quân Pôn Pốt bắt hơn 800 người. Sau thảm sát, Ba Chúc chỉ còn lại là một vùng đất tan hoang với những nỗi đau thương đến tận cùng. Đó là giai đoạn khó khăn nhất của Ba Chúc. Mọi cơ sở vật chất gần như bị san bằng, Ba Chúc chìm trong tang thương và đầy rẫy mùi tử khí. Thảm sát qua đi, hơn 30 phái đoàn ngoại giao, báo chí và Liên Hiệp quốc đã đến nơi để chứng kiến tận mắt tội ác của bọn Pôn Pốt đối với đồng bào Ba Chúc. Nhà mồ đầu tiên được xây dựng ngay sau khi cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc vào năm 1979. Khi đó nhà mồ xây dựng khá đơn giản theo hình lục giác với đặc điểm nổi bật là 4 cánh tay cầm 4 thanh kiếm đẫm máu cắm thẳng xuống đất, thể hiện ý chí căm thù của người dân Việt Nam đối với bọn giết người man rợ Pôn Pốt. Năm 2013, nhà mồ được xây dựng lại, là một quần thể công trình rộng khoảng 5ha, gồm nhà mồ, nhà lưu niệm, hội trường và chùa Tam Bửu, Phi Lai. Điểm nhấn công trình Nhà mồ Ba Chúc hiện tại được thiết kế hình hoa sen úp ngược, với 8 cánh hoa sen được sơn màu trắng, nhằm giảm bớt cảnh tang thương chết chóc. Mỗi cánh hoa sen là nơi trưng bày một nhóm hài cốt theo độ tuổi, giới tính khác nhau như: 86 phụ nữ trên 60 tuổi; 155 phụ nữ từ 21 đến 40 tuổi; 88 thiếu nữ từ 16 đến 20 tuổi; 264 trẻ em từ 3 đến 15 tuổi; 23 nam từ 16 đến 20 tuổi… Những vật dụng như cọc, dùi, dao, búa… mà quân Pôn Pốt dùng để hành hạ, giết chóc người dân Ba Chúc, được đặt nằm im ắng trong các lồng kính, nhưng chứa đựng sức mạnh tố cáo tội ác ghê gớm. Ở nơi đây, nhang khói không bao giờ tắt, luôn có người đến thăm viếng, tham quan. Không ít người đã không kìm được nước mắt thương cảm, xót xa cho những con người vô tội. Hàng năm, lễ giỗ tập thể nạn nhân Ba Chúc được tổ chức vào ngày 16/3 (âm lịch). Đây được xem là lễ giỗ tập thể rất lớn tại Việt Nam, thu hút hàng ngàn du khách, tín đồ tôn giáo và thân nhân các nạn nhân tham gia cúng viếng, cầu nguyện. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 2300 lượt xem
Lăng Thoại Ngọc Hầu (còn được gọi là Sơn Lăng) thuộc phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, là một di tích lịch sử rất giá trị của Châu Đốc nói riêng và của cả nước nói chung. Không chỉ mang ý nghĩa lịch sử, Lăng Thoại Ngọc Hầu còn là địa điểm tham quan ở Châu Đốc không thể thiếu trong bất kỳ một tour du lịch Châu Đốc nào. Đây là một công trình kiến trúc cổ tiêu biểu thời phong kiến và là một di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia. Khuôn viên lăng mộ có đền thờ ông Thoại Ngọc Hầu (một trong những người có công khai phá bờ cõi, mở rộng vùng Châu Thổ sông Cửu Long nói chung và Châu Đốc nói riêng). Bên cạnh đền thờ Thoại Ngọc Hầu còn có khu mộ của hai phu nhân được xây vào thập niên 30 của thế kỷ 20. Vị trí của Lăng Thoại Ngọc Hầu nằm cạnh chùa Tây An dưới chân núi Sam và cách miếu Bà Chúa xứ khoảng 20m. Lăng Thoại Ngọc Hầu là một công trình kiến trúc khá đồ sộ có sự kết hợp hài hòa trong bố cục thiên nhiên toàn cảnh ở khu vực núi Sam. Vì thế, điểm tham quan này để lại ấn tượng sâu sắc với du khách qua các tour du lịch Châu Đốc. Theo tư liệu lịch sử về Thoại Ngọc Hầu cho thấy, Ông đã cho xây dựng Lăng từ khi còn sống bởi một vợ thứ và vợ chính của ông – bà Châu Thị Tế khi mất đều được ông cho chôn cất lần lượt phía trái và phía phải mộ của ông sau này. Lăng Thoại Ngọc Hầu có khuôn viên khá rộng, có tường thành bao bọc và cổng vào đúc khá dày có hình bán nguyệt tạo nên thế vững chãi và chắc chắn. Nơi tường thành có năm tấm bia đá gắn chặt vào tường thành. Trong số này có bia chính giữa được cho là bia Vĩnh Tế Sơn được xây dựng năm 1828 – sau 4 năm kênh Vĩnh Tế được hoàn thành. Mộ của Thoại Ngọc Hầu và hai người vợ được xây bằng hồ vôi ô dước, đầu mộ là bình phong có đắp chữ Hán, chân mộ có bi kí. Bên ngoài vuông lăng, sau này có đền thờ ông Thoại được xây dựng với thế tựa lưng vào núi Sam để tưởng nhớ Thoại Ngọc Hầu. Bên trong đền được trang trí khá tỉ mỉ, kỹ lưỡng, có tượng bán thân của ông. Khu đất rộng ngoài vuông lăng còn có vô số các ngôi mộ của những người đã bỏ mình trong quá trình đào kênh Vĩnh Tế, được ông Thoại quy tụ cả về đây chôn cất. Bên cạnh khu lăng mộ Thoại Ngọc Hầu là Nhà trưng bày các hiện vật cổ quý hiếm của ông, bộ sưu tập bao gồm những đồ vật của hai ông bà sử dụng trong những dịp lễ triều như: mão bằng vàng và những vật sử dụng hằng ngày rất phong phú của VN, Trung Quốc, Thái Lan, Campuchia cho tới châu Âu như các loại đồng tiền bằng vàng, bạc, các loại đồ gốm: bát, muỗng, đĩa, thố, ống nhổ, bình rót...; đồ thủy tinh như: kính đeo mắt, bình, ly chân cao, lọ hít...; đồ đồng gồm: đồng chạm, đồng tam khí, pháp lam (đồng tráng men); antimol như: nồi, mâm, ấm, chân đèn, hộp đựng nữ trang, ô trầu, chảo, khay, chậu (thau), mâm bồng, đĩa chân cao, ống điếu, lệnh bài...; đồ bạc như: muỗng, hộp...; và những tàn tích của những chiếc hộp gỗ, rương gỗ... Bộ sưu tập bao gồm nhiều hiện vật quý hiếm trong đó có những hiện vật thuộc diện bảo vật quốc gia như chiếc mão vàng, thỏi, hộp vàng, đồng tam khí...; nhiều hiện vật được xác định là của vua Gia Long - Minh Mạng ban tặng cho cả hai ông bà có giá trị cao về lịch sử văn hóa, thẩm mỹ, khắc họa rõ nét sinh hoạt của tầng lớp quan lại cao cấp thời kỳ đầu triều Nguyễn tại vùng đất cực Nam Tổ quốc, góp phần bổ sung những phần khuyết thiếu trong việc nhận thức về cổ vật thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Thành Phố Châu Đốc Tỉnh An Giang
An Giang 1727 lượt xem
Thánh đường Mubarak tọa lạc trên một khu đất rộng, bên bờ Châu Giang, thuộc ấp Châu Giang, xã Châu Phong, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang (trước đây là xã Phú Hiệp, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang). Người địa phương thường gọi nôm na các thánh đường Hồi giáo ở đây là chùa. Thánh đường được xây dựng khá sớm, từ năm 1750 bằng gỗ lợp lá. Tính đến nay, thánh đường đã trải qua 4 lần xây dựng và sửa chữa lớn. Lần xây dựng gần nhất vào năm 1965, theo phong cách kiến trúc các kiểu thánh đường ở các nước Trung Đông. Thoạt nhìn, thánh đường Mubarak mang đến cảm giác choáng ngợp vì vẻ lộng lẫy và những họa tiết lạ mắt nhưng không kém phần tinh tế. Thánh đường Mubarak được thiết kế theo dạng 1 tòa nhà rộng, có những dãy hành lang dài thẳng tắp, với gam màu chủ đạo là xanh và trắng. Bên trên dọc theo hành lang là những bức tường được trang trí các họa tiết cùng với những dòng chữ Chăm được trích từ kinh thánh Qur’an. Mubarak được xem là một thánh đường có lối kiến trúc tiêu biểu của cộng đồng làng Chăm Châu Giang. Kiến trúc công trình thể hiện đường nét riêng, mang đậm văn hóa Hồi giáo nói chung và văn hóa của người Chăm ở Nam bộ nói riêng. Từ ngoài nhìn vào thánh đường chúng ta sẽ nhìn thấy cổng chính có hình vòng cung, phía trên nóc có một tháp lớn 2 tầng, nóc tháp hình bầu dục, dưới chân tháp có hình trăng lưỡi liềm và ngôi sao tượng trưng cho đạo Hồi giáo. 4 góc trên nóc thánh đường đều có 4 tháp nhỏ, giữa nóc thánh đường có 2 tháp bầu tròn nhô cao.Từ cửa chính của thánh đường trở ra 2 bên, mỗi bên có 2 vòm hình vòng cung nhọn đầu, mỗi vòm cách nhau 2,4m, bên trái và phải mỗi bên cũng có 6 vòm hình vòng cung nhọn đầu, mỗi vòm cách nhau 2,4m. Là nơi thường xuyên tập trung đông người đến cầu nguyện nên thánh đường có khá nhiều cửa ra vào cùng 8 cây cột chắc chắn ở bên trong. Những chiếc cột theo dạng trụ tròn này được thiết kế to nhưng cân đối, đều đặn. Bên trong thánh đường hết sức rộng lớn và thoáng mát được thiết kế đơn giản nhưng phải có hậu tẩm. Hậu tẩm được thiết kế là vòm lõm sâu vào tường sao các tín đồ khi cầu nguyện luôn hướng về phía mặt trời lặn, đây là nơi dành riêng cho các vị Imam (người chủ lễ) có nhiệm vụ hướng dẫn các tín đồ làm lễ. Bên cạnh hậu thẩm là một bục cao còn gọi là “minbar” dành cho người thuyết giảng giáo lý trong các buổi lễ thứ sáu hàng tuần. Bốn bề của bức vách bên trong thánh đường được tô điểm bởi màu trắng và xanh, nền được lát gạch, trần nhà treo những chùm đèn điện sáng rực tô điểm thêm vẻ trang trọng, tôn nghiêm. Lúc ấy, lòng du khách khoan khoái lạ thường, tín tâm trỗi dậy, lòng tà tiêu tan. Hàng năm, thánh đường tổ chức 3 kỳ lễ lớn: lễ sinh nhật giáo chủ Muhammed ((người sáng lập đạo Hồi) vào ngày 12/3 Hồi lịch, lễ Roja (lễ hành hương đến thánh địa La Mecque) vào ngày 10/12 Hồi lịch, lễ Ramadan (tháng ăn chay) kéo dài từ ngày 1 đến 30 tháng 9 Hồi lịch. Trong những ngày lễ lớn này, người Chăm tề tựu về hành lễ tại thánh đường rất đông, tạo thành nét sinh hoạt văn hóa truyền thống hết sức độc đáo và thú vị của cộng đồng người Chăm ở đây. Di tích Thánh đường Mubarak đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia vào ngày 12/12/1986. Với những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo, mang đậm màu sắc tôn giáo của người Chăm và những lễ hội truyền thống mang tính đặc trưng của đạo Hồi. Nguồn: Du Lịch An Giang
An Giang 1704 lượt xem
Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng nằm ở Cù lao Ông Hổ, giữa sông Hậu, tổ 4, ấp Mỹ An 2, xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Chủ tịch Tôn Đức Thắng (1888 - 1980) là Chủ tịch nước thứ hai và cuối cùng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là Chủ tịch nước đầu tiên của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ca ngợi ông "là gương mẫu đạo đức cách mạng, suốt đời cần kiệm liêm chính, suốt đời hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân". Ông là người đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, năm 1958. Cũng trong dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90, đoàn Chủ tịch Quốc hội Mông Cổ đã trao tặng Chủ tịch Tôn Đức Thắng Huân chương Xukhe Bato - Huân chương cao quý nhất của Mông Cổ. Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên nhận được Giải thưởng Lê nin vì hòa bình và hữu nghị các dân tộc (năm 1955) và Huân chương Lê nin - năm 1967 do Chính phủ Liên bang Xô viết trao tặng. Khu lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng được Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin quyết định xếp hạng là Di tích lịch sử quốc gia năm 1984. Đây là nơi Bác Tôn đã sinh ra, trưởng thành. Khu di tích này rộng khoảng 3.102m2, nằm trong một tổng thể không gian cảnh quan thoáng mát như bao nhiêu làng quê Nam Bộ, bao gồm các hạng mục: - Ngôi nhà sàn: do ông Tôn Văn Đề, thân sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng, dựng năm 1887, trên nền đất hương hỏa dòng họ Tôn. Năm 1888, Bác Tôn sinh ra tại ngôi nhà này và sống ở đây suốt thời niên thiếu đến khi rời quê lên Sài Gòn học nghề (năm 1906). - Khu mộ chí: nằm trong khu vực vườn cây ăn quả, có diện tích nền 110m2, thẳng phía sau nhà sàn, là nơi an nghỉ cuối cùng của hai thân sinh và vợ chồng người em trai thứ tư của Bác Tôn là bác Tôn Đức Nhung. - Vườn cây: gồm các loại cây, hoa trái tiêu biểu của vùng đất Nam Bộ như: mai, tre xanh, vú sữa, xoài... - Công trình Kỷ niệm 110 năm ngày sinh Bác Tôn, gồm 3 hạng mục: + Đền tưởng niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng; + Nhà trưng bày: giới thiệu toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Bác Tôn; + Quảng trường: nằm bên bờ sông Hậu, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, mít tinh. lễ hội.... - Công trình Kỷ niệm 120 năm ngày sinh Bác Tôn, gồm 7 hạng mục: + Nhà làm việc của Bác Tôn; + Chiếc Ca nô: mang tên Giải phóng, đây là chiếc ca nô mà Bác Tôn Đức Thắng đã điều khiển, đưa một số đồng chí trong Ban lãnh đạo Đảng và cán bộ cách mạng bị tù Côn Đảo trở về, chấm dứt 15 năm Bác Tôn bị tù đày tại địa ngục Côn Đảo; + Máy bay Y-A-K40 số 452: đã đưa Chủ tịch Tôn Đức Thắng từ Hà Nội vào Sài Gòn ngày 11/5/1975 để dự lễ mít tinh kỷ niệm 30/4/1975; + Tàu Giang cảnh: là phương tiện đưa Bác Tôn từ Long Xuyên về thăm quê nhà cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hòa Hưng, tháng 10 năm 1975; + Nhà trưng bày các tác phẩm điêu khắc: gồm 23 tác phẩm điêu khắc, bằng gốc cây lâu năm, chủ đề về Bác Tôn và quê hương Mỹ Hòa Hưng. Trong ngôi nhà sàn vẫn lưu giữ 12 hiện vật gốc được gia tộc họ Tôn sử dụng từ khi dựng nhà, tiêu biểu như: bộ ngựa gõ, bộ bàn ghế tiếp khách, tủ thờ, đỉnh trầm, tủ áo... Nhà Trưng bày thân thế, sự nghiệp Chủ tịch Tôn Đức Thắng có 36 hiện vật gốc gắn với cuộc đời niên thiếu và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Bác Tôn, tiêu biểu như: đôi hài hàm ếch, đồng hồ đeo tay, quần kaki, ... và nhiều hiện vật phục chế khác. Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, du lịch. Ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Khu di tích lưu niệm Chủ tịch Tôn Đức Thắng là di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa
An Giang 2072 lượt xem
Chùa Bửu Hưng tọa lạc tại xã Long Thắng, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Bửu Hưng cổ tự đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia vào ngày 3/8/2007. Vì ngôi chùa nằm bên cạnh rạch ông Cả Cát nên người dân quen gọi đây là chùa Cả Cát hàng trăm năm nay. Theo lịch sử ghi chép tại chùa thì Bửu Hưng tự được thiền sư Nguyễn Đăng từ kinh thành Huế vào đây dựng chùa vào giữa thế kỷ 18, khoảng những năm 1777 – 1780 với vật liệu tạm bợ là tre trúc, vách đắp bùn, lợp lá dừa nước. Năm 1803, ngôi chùa được vua Gia Long phong là Sắc tứ Bửu Hương tự. Tương truyền, có lần bị quân Tây Sơn đánh đuổi, chúa Nguyễn Phúc Ánh (về sau là vua Gia Long) đã phải chạy vào chùa trú ẩn. Nhớ ơn, nên sau khi lên ngôi, chúa Nguyễn đã ban biển sắc tứ cho chùa, đồng thời phong cho sư Tiên Thiện Từ Lâm là Từ Dung hòa thượng. Trong chùa có tấm biển ghi “Sắc tứ Bửu Hưng Tự Gia Long nhị niên”. Sau đó, nhà sư đã cho xây dựng ngôi chùa đơn sơ thành một ngôi đại tự kiên cố bằng cây gỗ quý. Năm 1821, dưới đời Vua Minh Mạng, tổ Minh Tịnh Bửu Thành và Minh Phước Tư Trung cho xây dựng chùa quy mô hơn và được triều đình cúng tượng phật Di Đà bằng gỗ cao 1,8m và các pháp khí để thờ. Năm 1910, đến đời tổ Như Lý hiệu Thiên Trường (1887 – 1969) chùa lại được trùng tu lớn. Trong những năm 1909 – 1911, sư đã cho sửa sang chánh điện, chạm trổ thêm bao lam thần vọng, biển thờ, hoành phi, câu đối… Đồng thời, nhà sư cũng cho chỉnh sửa lại khu mộ tháp và trồng thêm cây cảnh nên ngôi chùa càng thêm đẹp đẽ và uy nghiêm. Tháng 9 năm 1946 chùa bị máy bay ném bom trúng ngay nhà tổ làm thiệt mạng sư trụ trì Chánh Viên và 4 phật tử. Hưởng ứng công cuộc kháng Pháp nhà chùa đã hiến một đại hồng chung cho cách mạng để chế tạo vũ khí đánh Pháp. Sau đó hoà thượng Chơn Hoà (1950 – 1966) về trụ trì cho xây dựng lại nhà tổ như cũ, chùa dần dần hưng thịnh lại như trước. Năm 2002 chùa được tu sửa lại, mái lợp ngói lưu ly, nền lát gạch men. Các cột kèo phù điêu, các bức chạm tứ quý còn nguyên gốc rất đặc sắc khéo léo. Về kiến trúc xây dựng, Chùa Bửu Hưng hiện tọa lạc trên diện tích khoảng 4.000 mét vuông, thiết kế theo kiểu chữ tam có chiều ngang 15 mét, dài 50 mét bao gồm: Tiền đường, Chánh điện và nhà Hậu Tổ. Tiền đường và Chánh điện nối liền nhau. Chánh điện gồm ba gian hai chái rộng lớn kiểu tứ trụ, có bao lam, Thần vọng chạm trổ tứ linh rất tinh xảo và công đình nhà Nguyễn gửi vào cúng dường năm 1821. Phía sau chánh điện chùa là một sân lộ thiên (sân thiên tỉnh) hình chữ khẩu, có hành lang hai bên (Đông lang, Tây lang) nối với nhà Hậu Tổ. Trong vườn trúc cạnh chùa là khu tháp cổ. Đây là nơi an trí nhục thân của các nhà sư đã từng tu tập tại chùa. Ngoài nét kiến trúc cổ kính, điểm đặc biệt của chùa Bửu Hưng chính là phần lớn các tượng Phật trong chùa đều được làm bằng nhiều loại gỗ quý có niên đại hàng trăm năm tuổi. Trong đó đáng chú ý là tượng Phật A Di Đà được làm bằng gỗ do triều đình nhà Nguyễn gửi vào cúng dường năm Minh Mạng thứ 2 (năm 1821) được đặt giữa chánh điện. Hiện chùa vẫn còn hơn 100 cây cột gỗ to và quý, ba bộ cửa gỗ lớn (mỗi cửa 4 cánh) có chạm hình rồng và hoa lá rất mỹ thuật. Ba bộ cửa này được làm ở đầu thế kỷ 20 và được dựng ở vách sau Chánh điện vào những năm 1909 – 1911. Nguồn: Du Lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 1563 lượt xem
Đình Định Yên được xây dựng vào năm Canh Tuất 1909, tọa lạc tại ấp An Lợi A xã Định Yên, huyện Lấp Vò – Đồng Tháp. Truyền thuyết địa phương kể rằng: xưa có ông Phạm Văn An là người đầu tiên chọn nơi đây khai hoang, lập ấp định cư lạc nghiệp. Để ghi ơn những người đi trước, người dân nơi đây lấy tên ông ghép với chữ Định đặt chi tên làng gọi là Định Yên (vì kiêng gọi tên An), tên Đình Định Yên do đó mà có. Đình được kiến trúc theo kiểu nội CÔNG ngoại QUỐC, tường xây, cột gỗ, lợp ngói đại ống, các kỳ, kèo, cột được chạm trổ hoa văn đầu rồng lân khéo và đẹp. Các câu đối, liễn bao lam được cẩn ốc xà cừ, chạm cá hóa long, lưỡng long tranh châu, sen, mẫu đơn… sơn son thếp vàng. Các bức tranh sơn thủy, bích họa đường nét sắc sảo, nội dung ca ngợi đất nước con người văn, võ, trí, đức. Trước sân đình nền tráng xi măng rộng rãi với những bồn hoa hương thơm bát ngát, hàng cổ thụ dương, dầu, sao cao vút vi vu trong gió gợi nên cảnh cũ người xưa còn đâu đây. Trong ngoài thật khéo sắp đặt hài hòa, cân đối tạo cho công trình kiến trúc thật nguy nga lộng lẫy. Tại bái đình (chánh điện) trên bục cao thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh. Hai bên trần thiết trang nghiêm với long, lân, quy, phụng, chim hạc, ngai thần, lổ bộ, lư hương, tàn, lọng… Hai bên thờ thần được bố trí thờ tả, hữu ban là các vị tiền hiền của đình. Hàng năm vào những ngày 16 – 17 tháng 4 và 15 – 16 tháng 11 âm lịch, lễ cúng đình diễn ra thật long trọng với đầy đủ nghi thức như: đội kỵ mã, đội lân, lính hầu, học trò lễ, trống, chiêng, nhạc lễ… Đến đình Định Yên với lòng tôn kính nhớ đến công đức người xưa đối với đất nước quê hương mới hiểu được chữ “Thần”. Đó chính là anh linh của tiền nhân như còn quyện trong hương khói luôn chở che bao người và tồn tại vĩnh hằng trong lòng Nhân dân. Nguồn: Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 1752 lượt xem
Đình Tân Phú Trung tọa lạc nằm trên một khoảnh đất rộng, giữa một vùng quê trù phú thuộc xã Tân Phú Trung, huyện Châu Thành, là một trong những ngôi đình cổ ở Đồng Tháp rất đáng để du khách ghé thăm. Đình Tân Phú Trung thờ thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, được vua Tự Đức ban Sắc phong 1854. Đình làng Tân Phú Trung được trùng tu lớn vào các năm 1952, 1957… Đến nay đình Tân Phú Trung là một trong những ngôi đình có kiến trúc khá tiêu biểu cho đình làng Nam bộ thời Nguyễn đầu thế kỷ XX. Từ cổng nhìn vào ta nhận ra những công trình chính: cổng đình, sân đình, đình chính và nhà Hương hội. Cổng chính ngay trước đình chính, ngang 3m, cao 3,5m. Trụ cổng bằng gạch vững chãi, trên gắn tượng lân bằng sành. Thanh ngang cổng đình đắp nổi: Đình Tân Phú Trung. Sân đình rộng, lát gạch tàu, giữa là cột cờ cao 8m. Dưới chân cột cờ là Đàn xã tắc. Trước Đàn xã tắc là Bình phong, phía trước là tranh vẽ cảnh đôi rồng vờn uốn lượn trong mây, phía sau là hổ xuống núi (hạ sơn lâm). Cân đối trong sân đình, bên phải là miếu Sơn thần (thần hổ), đối xứng là miếu Ngũ hành (Ngũ nương). Chỉ trong sân đình đã chứa đựng biết bao biểu tượng đời sống văn hóa tâm linh, tư duy của cư dân nông nghiệp Đình chính gồm ba khối nhà theo kiểu sắp đọi, mỗi nhà có bốn cột chính, cũng là tứ trụ, theo đó mà đâm lòng trính và vì kèo ra bốn phía kêu là tứ tượng, trên mỗi vì kèo còn đâm kèo quyết, trên đó là dàn rui mè… tạo nên mái đình vững chãi. Đình chính có ba nóc, kiểu thượng lầu hạ hiên, trùng thềm điệp ốc. Mái đình lợp ngói âm dương, trên cùng trang trí công phu những lưỡng long tranh châu, cá hóa long, lân vờn mẫu tử, bát tiên, chim phượng ngậm cuốn thư… Trong đình, nhiều mảng chạm khắc các hoành phi, bao lam, câu đối với các đề tài khá phổ biến như: Long, Lân, Quy, Phụng, xuân – hạ – thu – đông, hoa lá cách điệu. Đặc biệt đình có 3 tượng quan Thánh – Đế – Quân làm bằng gỗ trầm quí hiếm hiện còn lưu giữ. Đình Tân Phú Trung không chỉ là công trình kiến trúc lâu đời của nhân dân địa phương mà còn là nơi lưu giữ những hoạt động văn hóa tín ngưỡng cộng đồng tiêu biểu, góp phần bảo tồn văn hóa bản địa. Ngày 15 tháng 8 năm 2012, Đình Tân Phú Trung đón nhận Bằng công nhận Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Hằng năm, lễ hội đình làng Tân Phú Trung diễn ra vào những ngày 16 – 17 tháng tư âm lịch (năm chẵn) và 12 – 13 tháng 5 âm lịch (năm lẻ) thu hút hàng chục ngàn lượt khách du lịch Đồng Tháp đến tham quan, chiêm bái, cầu cho quốc thái dân an, một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, mọi việc làm ăn thuận lợi, làng xóm ấm no sung túc… Nguồn: Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 1977 lượt xem
Ngày 29/10/1954, tại Bến bắc Cao Lãnh, một sự kiện đặc biệt đã diễn ra – Cuộc đưa tiễn hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc. Đây là một cuộc chuyển quân có ý nghĩa vô cùng to lớn: đưa cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam ra Bắc lao động, học tập nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng miền Nam, xây dựng miền Bắc Xã hội chủ nghĩa làm hậu phương vững chắc tiến tới giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. 66 năm đã trôi qua, nhưng sự kiện tập kết chuyển quân ra Bắc năm 1954 tại Cao Lãnh vẫn còn vẹn nguyên giá trị, tô thắm thêm truyền thống cách mạng của quê hương đất nước. Bến bắc Cao Lãnh là nơi đưa tiễn cán bộ, chiến sĩ, học sinh các tỉnh: Mỹ, Tân, Gò, Long Châu Sa, Gia, Định, Ninh, Phân Liên khu miền Đông và quân tình nguyện rời quê hương xuống tàu tập kết ra Bắc. Cuộc tập kết chuyển quân ra Bắc tại Cao Lãnh diễn ra trong 3 đợt (tháng 8 đến tháng 10 năm 1954) với tổng số 13.508 người (trong đó tỉnh Long Châu Sa nay là Đồng Tháp là 2.655 người). Những ngày tập kết ở Cao Lãnh, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ rất đỗi thân thương và gần gũi. Thể hiện tình cảm quân dân gắn bó nhau như cá với nước. Đồng bào đón bộ đội và thân nhân các gia đình như người thân trong gia đình, cùng ăn, cùng ở, cùng chung sức . Với ý nghĩa lịch sử và tầm vóc của sự kiện chuyển quân tập kết ra Bắc năm 1954 vẫn còn nguyên giá trị, nhằm giáo dục truyền thống cách mạng, bồi dưỡng tinh thần yêu nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; tỉnh Đồng Tháp được sự hỗ trợ kinh phí của các tỉnh, thành: Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh An Giang, Tiền Giang, Long An, Bình Phước, Bình Dương, Đồng Nai và Tây Ninh đã tổ chức xây dựng Tượng đài kỷ niệm sự kiện lịch sử này với diện tích trên 12.000m2, ngay tại địa điểm diễn ra sự kiện tập kết chuyển quân ra Bắc năm 1954 tại Cao Lãnh (Khóm 6, Phường 6, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Tổng thể mặt bằng khuôn viên Tượng đài mang dáng dấp như một đóa sen đang nở bên dòng sông Tiền hiền hòa, thơ mộng. Nằm ở trung tâm là tượng hai nhân vật Người mẹ miền Nam và Anh bộ đội. Hình tượng mẹ tiễn con đi tập kết – người mẹ choàng lên vai đứa con thân yêu của mình chiếc khăn rằn, sản phẩm đặc trưng vùng Nam bộ, hàm ý gửi gắm tình cảm thiêng liêng của miền Nam đến Bác Hồ, đến miền Bắc ruột thịt, và cũng hàm ý những người ra đi không quên nguồn cội để có ngày quay về đoàn tụ, Ra đi để trở về. Và họ thật sự đã trở về sau “21 năm nối lại đôi bờ”khi đất nước hoàn toàn thống nhất bởi chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng Mùa xuân năm 1975. Hai bên Tượng đài là hai mảng phù điêu được thể hiện cả hai mặt trước và sau. Tổng thể phù điêu mang dáng dấp hình ảnh chiếc tàu sắt tiễn đưa người đi tập kết, đồng thời cũng là hình ảnh của những lá sen trong một đầm sen – đặc trưng của vùng quê Đồng Tháp. Mảng phù điêu bên phải Tượng đài: Khắc họa những hoạt động thắm đượm tình quân dân trong những ngày tập kết tại Cao Lãnh. Mảng phù điêu bên trái Tượng đài: Khắc họa quan cảnh buổi tiễn đưa đoàn cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam lên tàu tập kết ra Bắc năm 1954. Tượng đài sự kiện tập kết chuyển quân ra Bắc năm 1954 tại Cao Lãnh được bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Quốc gia ngày 29/10/2019. Nguồn: Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 1661 lượt xem
Chùa Phước Kiển nằm ở xã Hòa Tân, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp, được thành lập trước thời vua Thiệu Trị. Chùa được bộ văn hoá thể thao và du lịch xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá. Theo sư trụ trì Thích Huệ Từ thì trước đây ngôi chùa rất lớn, uy nghiêm, sở hữu không gian khoáng đãng, thanh tịnh, mát mẻ. Chùa Phước Kiển Tự còn từng là cơ sở hoạt động, nuôi dấu cán bộ cách mạng. Tuy nhiên không may là vào năm 1966, bom đạn chiến tranh đã làm sập hoàn toàn ngôi chùa. Sau năm 1975, chùa được xây lại với kiến trúc đơn giản không cầu kỳ bao gồm: cổng vào, tháp thờ Phật Quan Âm và chính điện. Những hố bom được các sư thầy trong chùa dùng làm hồ sen. Trong ao sen có một loài sen kỳ lạ và hiếm thấy không chỉ ở Việt Nam mà ở cả các nước Đông Nam Á. Ao sen ở chùa Phước Kiển có hình vuông tượng trưng cho đất, lá sen có hình tròn tượng trưng cho trời. Lá sen khổng lồ, to như những cái nia, vành cong gần cả tấc tay, rất đẹp mắt. Được biết, loài sen này xuất hiện trong ao của nhà chùa từ năm 1992 và tồn tại cho đến bây giờ. Không ai biết tên gọi chính xác của chúng nên người ta thường gọi bằng nhiều tên khác nhau. Có người gọi là sen vua, có khi gọi là súng nia, cây nong tầm,…chính vì có loài sen lạ nên người dân thường gọi chùa bằng cái tên dân dã “Chùa Sen Vua” hay “Chùa Lá Sen”… Lá sen vua đặc biệt ở một điểm là có thể co rút theo mùa. Vào mùa khô lá chỉ tầm khoảng 1 mét nhưng vào mùa nước nổi lá to với đường kính từ 3 đến 4 mét. Phần mép lá cao hơn mặt nước khoảng từ 3 đến 5cm, hình dáng của chúng tựa như chiếc nón quai của những cô gái làng quan họ. Vào mùa con nước nhảy bờ, lá sen to có thể dễ dàng chứa được một người trọng lượng 70 – 80 cân mà chỉ làm chao nhẹ mặt nước. Còn vào mùa khô, lá sen chỉ to khoảng 1 – 1,5m. Mặt trên của lá nhẵn bóng màu xanh nhạt, còn mặt dưới nhiều gai và có nhiều gân lớn, được chia nhỏ thành các ô vuông có màu đỏ nhạt khi còn non và thẫm dần khi lá già. Hoa sen nở trong 3 ngày và mỗi ngày nở 2 lần, chuyển màu liên tục. Hoa nở lần đầu vào khoảng 6 giờ tối, tỏa hương thơm ngát đến 12 giờ sáng hôm sau thì bắt đầu khép lại. Tầm 3 giờ hoa lại nở, đến khoảng 4 – 5 giờ chiều thì khép cánh. Từ màu trắng hồng ban đầu, mỗi lần hoa nở sẽ sẫm hơn một chút đến khi tàn sẽ có màu tím thẫm. Chùa Phước Kiển còn gắn liền với câu chuyện về rùa thần và hạc thần. Năm 1948 có người mang đến tặng chùa một con rùa. Con rùa này suốt ngày cứ quanh quẩn bên sư thầy, hằng ngày chỉ ăn chay và nghe tụng kinh niệm phật. Đến năm 1966, chiến tranh tàn phá khiến cho chùa tan hoang, rùa bị bắt mất nhưng sau đó người trộm rùa tự mang rùa đến chùa nhận tội. Đến năm 1999, trong chùa xuất hiện một con hạc và nó rất hay đậu trên lưng rùa nhưng sau đó, có ý kiến bắt chim hạc về khu bảo tồn. Từ đó về sau, người ta không thấy chim hạc xuất hiện nữa, chim hạc bay đi, rùa cũng qua đời. Sư trụ trì ướp xác rùa và đeo vào cổ một chuỗi tràng hạt, đặt trong lồng kính thờ trong chùa. Nguồn: Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Du lịch và Đầu tư Đồng Tháp
Đồng Tháp 1818 lượt xem
Kiến An Cung, tục gọi là chùa ông Quách, là một ngôi đền tọa lạc tại trung tâm thành phố Sa Đéc ( số 39 Đường Phan Bội Châu, Phường 1, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp), đối diện với con rạch Cái Sơn. Đền được xây từ năm 1924 đến năm 1927 bởi những người Hoa đến từ Phúc Kiến. Chùa mang đậm nét kiến trúc Trung Quốc, với tổng thể là hình chữ Công gồm ba gian: Đông lang, Tây lang và khu chính điện thì rộng hơn. Mái ngói gồm 3 lớp, mặt trên ngói, giữa gạch, dưới là ngói. Ngói được lợp theo gợn sóng rồng, trải nền cho những ngọn sóng cong vút lên cao, tạo mái ngói theo kiểu “ngũ hành". Mỗi đầu ngọn sóng là một cung điện thu nhỏ, bao gồm có 6 cung điện. Toàn bộ chùa không có kèo, chỉ có đòn tay ráp mộng lại chịu lực trên những cột gỗ tròn. Trên những bức tường của chùa là những hình ảnh trong Tây du ký, Tam Quốc Diễn Nghĩa,... Phía cổng vào là hai con Kì Lân bằng đá xanh rất lớn, phía trên là tấm hoành phi sơn son thếp vàng lộng lẫy. Tại chính giữa chánh điện là gian thờ đức Quảng trạch Tôn Vương, tượng ông được đúc bằng đồng đỏ với gương mặt phúc hậu, tay cầm đai ngọc, bên cạnh là hai vị thần khác. Phía tay phải của ông là nơi thờ đức Thanh Thủy Tổ Sư, bên trái là Bảo Sanh Đại Đế. Còn hai gian ngoài tức Đông Lang và Tây Lang là nơi thờ một số vị thần khác như Quan Thánh Đế Quân...Phía trên các khánh thờ có một hoành phi đề bốn chữ Hán "Phú bảo an đông". Hai bên cột có đôi liễn: Đông thôn chúc thánh đức thành cung hách trạc thạnh trùng tu Phú Mĩ tạ thần án, khánh hạ nguy nga hưng miếu tự Từ khi xây dựng đến nay, chùa đã được trùng tu ba lần nhưng vẫn nằm tại vị trí cũ. Mỗi năm chùa có hai lễ hội lớn vào ngày 22 tháng 2 Âm lịch và 22 tháng 8 Âm lịch đón tiếp nhiều khách thập phương. Với lối kiến trúc mang đậm phong cách Trung Hoa, với một nền văn hóa truyền thống đặc sắc, Kiến An Cung đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia vào ngày 27-4-1990. Nguồn: Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 1955 lượt xem
Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê tọa lạc tại số 255A, đường Nguyễn Huệ, phường 2, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngôi nhà cổ do ông Huỳnh Cẩm Thuận, một thương gia người Hoa (Phúc Kiến, Trung Quốc) nổi tiếng giàu có một thời ở Sa Đéc, xây dựng vào năm 1895 giữa khu thị tứ mua bán náo nhiệt nằm ven sông Sa Đéc. Ngôi nhà được xây dựng kết hợp độc đáo giữa hai lối kiến trúc Đông - Tây, đặc biệt ngôi Nhà cổ này còn nổi tiếng bởi liên quan với một cuộc tình không biên giới của nữ văn sĩ người Pháp tên Marguerite Duras và chàng công tử người Việt gốc Hoa tên Huỳnh Thủy Lê, con của ông Huỳnh Cẩm Thuận - chủ ngôi nhà. Năm 1929, Marguerite Duras và Thiếu gia Huỳnh Thủy Lê gặp gỡ và đã yêu ngay từ lần gặp đầu tiên. Tuy nhiên sau 18 tháng yêu nhau, vì sự phản đối kịch liệt của ông Huỳnh Cẩm Thuận mà mối tình này phải kết thúc và Marguerite Duras phải quyết định buông bỏ trở về Pháp. Sau này Huỳnh Thủy Lê phải thuận theo gia tộc để kết duyên với một cô gái gốc Hoa. Mối tình này về sau trở thành hồi ký để bà viết nên tiểu thuyết nổi tiếng Người tình (The Lover) năm 1984. Tác phẩm này được đạo diễn người Pháp Jean-Jaques Annaud chuyển thể thành phim L’Amant năm 1992. Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc phương Đông và phương Tây. Toàn bộ ngôi nhà được xây dựng trên diện tích 258 mét vuông có hình dáng theo kiểu nhà truyền thống người Việt, mái lợp ngói âm dương, hai bên đầu hồi cong vút hình thuyền theo kiểu đình chùa Bắc bộ nhằm tạo nét mềm mại cho mái. Tuy nhiên, kiến trúc bên trong nhà cao ráo thoáng mát, tường được xây bằng gạch đặc rất dày từ 30-40cm bao lấy kết cấu khung gỗ làm tăng khả năng chịu lực theo lối kiến trúc truyền thống của Pháp. Nhà có ba gian, trang trí bên trong theo kiểu người Hoa. Các bao lơn, thành vọng sơn son thếp vàng, chạm khắc rất giống như chùa người Hoa, khung bao lơn chính giữa có chạm đôi Loan Phụng thể hiện “Loan Phụng hòa minh sắc cầm thỏa hiệp” có ý nghĩa là hạnh phúc trường tồn. Các khung bao hai bên chạm trổ chim muông hoa lá thể hiện sự sung túc của gia đình. Đặc biệt, giữa gian nhà chính có thờ Quan Công, một tín ngưỡng truyền thống của người Hoa; đồng thời cũng thể hiện sức mạnh và sự phồn thịnh trong cuộc sống. Các cửa gỗ, các loại tủ, giường, bàn thờ đều được chạm khắc rất công phu, tinh xảo. Năm 2008, Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê được công nhận là Di tích Lịch sử cấp tỉnh và 2009 được công nhận là Di tích Lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Du Lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 1852 lượt xem
Khu di tích Xẻo Quýt nằm trên địa phận hai xã Mỹ Long và Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, có tổng diện tích là 70 héc-ta. Từ năm 1960 đến năm 1975 Tỉnh ủy Kiến Phong (nay là Đồng Tháp) đã chọn nơi đây làm căn cứ để lãnh đạo nhân dân tỉnh nhà góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Xưa kia, nơi đây là vùng đất hoang vu, sình lầy, đầy cỏ dại và là vùng nước ngọt nhiễm phèn, lắm muỗi, nhiều đỉa. Việc ăn ở, hoạt động của cơ quan Tỉnh ủy chủ yếu dựa vào sự đùm bọc, che chở của nhân dân quanh vùng và phải đào mương lên liếp để ngăn xe tăng giặc, xây dựng công sự và trồng cây gây rừng để trú ẩn và hoạt động. Quanh căn cứ này, với bán kính 6 km là hệ thống gần như khép kín của hơn 10 đồn bốt địch. Trong đó, có hai đồn cách khu căn cứ khoảng 1 km. Trong suốt cuộc chiến tranh nơi đây là vùng tự do túc xạ, tự do bắn phá, là “trường bắn” và là “bãi tập trực thăng” của địch. Nhiều lần máy bay B52, xe lội nước M113, thuyền bay, pháo binh kết hợp với bộ binh địch liên tục dội bom, càn quét, bắn phá vào vùng căn cứ, hòng tiêu diệt mọi sự sống trên mảnh đất này. Vì vậy, Xẻo Quýt trở thành một vùng chiến sự rất ác liệt. Có những lúc Tỉnh ủy phải đối mặt giữa cái sống và cái chết trong gang tấc. Để hoạt động và tồn tại cho đến ngày toàn thắng, một mặt, Tỉnh ủy đã thể hiện tài trí thao lược, lòng kiên trì dũng cảm, chịu đựng gian khó để bám đất, bám dân “một tấc không đi, một ly không dời”, phải có kiểu ở thích hợp để sống được và sống tốt trong vùng đồng bằng, đồng đưng, mùa nước (phải đi lại và làm việc trên xuồng)… Mặt khác, Tỉnh ủy tồn tại được là do một nghĩa cử rất cao đẹp: “Xẻo Quýt nằm ngay trong lòng quần chúng nhân dân”. Đây là yếu tố mang tính quyết định cho sự tồn tại và an toàn của căn cứ. Vì vậy, ngày nay Xẻo Quýt được gọi là “CĂN CỨ LÒNG DÂN”. Xẻo Quýt được chia làm 2 khu vực: Khu vực 1 khoảng 50ha, khu vực 2 khoảng 20ha. Khu vực 1 là khu bảo tồn nguyên trạng các giá trị lịch sử, văn hóa của khu căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến và sự đa dạng về sinh thái tự nhiên …. Khu vực 2 là khu phát triển các hoạt động kinh doanh, dịch vụ du lịch và dã ngoại như: Nhà hàng, Hội trường, Khu ẩm thực ngoài trời, câu cá giải trí, các trò chơi trải nghiệm vùng sông nước…. Hội trường Tỉnh ủy-nơi diễn ra nhiều hội nghị lớn, đề ra các chủ trương, nghị quyết quan trọng để lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh; nhà làm việc của đơn vị văn thư; công sự chiến đấu, công sự tránh bom, hầm bí mật, bãi ngù-tử địa… Hiện Xẻo Quýt có 170 loài thực vật (với 158 loài hoang dại) và 12 loài cây thân gỗ, tuy không quý hiếm nhưng lại là giống cây thích nghi với điều kiện ngập nước. Hệ động vật có 200 loài hoang dã gồm 7 loài ếch nhái, 22 loài bò sát, 73 loài cá, 91 loài chim và 7 loài thú. Đặc biệt ở đây có 13 loài động vật quý hiếm được ghi vào sách đỏ Việt Nam: trăn mốc, rắn hổ trâu, rùa hộp, chim sả mỏ rộng và loài rái cá thường… Thảm tràm già và các quần thể đưng, lục bình là hai kiểu hiện nay hầu như không còn tìm thấy ở các vùng khác của Đồng Tháp Mười. Nhiều cây tràm với tuổi thọ hơn 30 năm vươn cao, cùng với hệ thống dây leo bám quanh, tạo thành những khối hình chóp nón khổng lồ. Với những dấu ấn lịch sử quan trọng đó, ngày 9 tháng 4 năm 1992, Xẻo Quýt đã được Bộ Văn Hóa-Thông tin công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Nguồn: Du lịch Đồng Tháp
Đồng Tháp 1637 lượt xem
Khu di tích Láng Le Bàu Cò tọa lạc tại xã Tân Nhựt, huyện Bình Chánh, Tp HCM. Láng Le Bàu Cò gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược vào năm 1948 với những trận đánh lớn đi vào lịch sử. Di tích Láng Le Bàu Cò được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố vào năm 2003. Sở dĩ được gọi tên là khu di tích Láng Le Bàu Cò vì Tên gọi của khu di tích Láng Le Bàu Cò là do người dân địa phương đặt ra. Xóm làng được thành lập cạnh những con kênh rạch chằng chịt và dòng sông. Láng Le Bàu Cò có vị trí nằm ở bên trong cánh đồng có diện tích rộng lớn và có rất nhiều tôm, cua, cá. Cùng với nhiều loài chim như vịt trời, cò, con le le, cúm núm, cồng cộc, đa đa, diệc, đỏ nách tới kiếm ăn tại đây. Vì vậy, người dân Tân Nhựt gọi với cái tên thân thuộc và mộc mạc đó là Láng Le Bàu Cò. Di tích Láng Le Bàu Cò được xem là cửa ngõ để di chuyển tới trung tâm căn cứ Vườn Thơm và tấn công cơ quan đầu não của quân địch tại Sài Gòn. Trước đây khu di tích Láng Le Bàu Cò vốn là cánh đồng lau sậy mọc um tùm. Vào ngày 15/4/1948 thực dân Pháp đưa 3 nghìn quân lính cùng nhiều vũ khí hiện đại đồng loạt tấn công khu vực Láng Le Bàu Cò nhằm tiêu diệt căn cứ Vườn Thơm. Khi đó lực lượng vũ trang cách mạng ở Láng Le - Bàu vì lực lượng nhỏ và vũ khí thô sơ tuy nhiên được sự giúp đỡ của người dân địa phương cùng với lợi thế về địa hình. Chỉ sau hơn nửa ngày đấu tranh đã chuyển sang tấn công khiến quân Pháp bị thương vong với số lượng lớn. Chiến thắng Láng Le Bàu Cò đã tiêu diệt 300 tên địch và bắt sống 30 lính đánh thuê cùng phá hủy nhiều máy móc, xe nhà binh, súng các loại của quân giặc. Tuy nhiên, về phía ta có nhiều cán bộ chiến sĩ đã anh dũng hy sinh với tuổi đời còn rất trẻ. Ngày 14/10/1966 tại Láng Le tiểu đoàn biệt động quân Việt Nam Cộng Hòa bị dân quân du khách tiêu diệt. Khu di tích Láng Le Bàu Cò có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với người dân Sài Gòn nói riêng và cả nước nói chung. Trước lòng căm thù thực dân Pháp, quân dân Láng Le Bàu Cò đã có cuộc chiến vang lừng lịch sử và có ý nghĩa to lớn mở đầu cho phía ta và phía địch. Đối với phía ta trận đánh mở đầu cho sự anh dũng trong tư thế kháng chiến vững mạnh. Còn với quân địch đã phải lùi vào thế bỏ chiến lược và bị tiêu diệt. Thực dân Pháp không còn định hình được chiến lược đánh bại Việt Minh. Hơn thế, tại căn cứ Vườn Thơm, Láng Le Bàu Cò còn diễn ra trận chiến quyết tâm bảo vệ căn cứ của ta và đập tan mọi kế hoạch phá hoại của quân giặc. Khu di tích Láng Le Bàu Cò sau phong trào Đồng Khởi vào năm 1960 còn là hậu cần, bàn đạp của lực lượng vũ trang để giải phóng Long An - Sài Gòn - Gia Định. Để tưởng nhớ sự hy sinh của đồng bào và các chiến sĩ của ta, vào năm 1988 huyện Bình Chánh đã xây dựng công trình lịch sử tại vùng đất Láng Le Bàu Cò với diện tích rộng 1000m2. Nguồn: Báo thông tin điện tử TP Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 7579 lượt xem
Nhà lao Tân Hiệp còn có tên là "Trung tâm cải huấn Tân Hiệp" tọa lạc ở khu phố 6, phường Tân Tiến, TP Biên Hòa. Di tích Nhà lao Tân Hiệp đã được Bộ Văn Hoá Thể Thao xếp hạng là di tích cấp quốc gia ngày 15-1-1994. Nhà lao Tân Hiệp là một trong sáu nhà tù lớn nhất miền Nam Việt Nam và là nhà tù lớn nhất vùng Đông Nam bộ, được xây dựng ở vị trí quân sự quan trọng, án ngữ phía đông bắc thị xã Biên Hòa. Phía trước là quốc lộ 1; phía sau là đường xe lửa Bắc - Nam. Đây là vị trí biệt lập, thuận tiện trong giao thông, dễ dàng cho việc bảo vệ, canh gác, nhận tù từ nơi khác đến và chuyển tù đi Côn Đảo, Phú Quốc... Nhà lao Tân Hiệp có diện tích 46.520m2 với 8 trại giam, trong đó có 5 trại giam những người tù cộng sản, người yêu nước. Xung quanh nhà tù được bao bọc bởi 4 lớp kẽm gai bùng nhùng với 9 lô cốt, 3 tháp canh cùng đội lính bảo vệ và hệ thống báo động tối tân. Mang tên "Trung tâm cải huấn" nhưng thực chất bên trong là kho súng, phòng xét hỏi, tra tấn với những dụng cụ hiện đại bậc nhất. Mỗi trại giam chỉ có diện tích gần 200m2 nhưng giam giữ từ 300-400 người, có lúc lên đến cả ngàn người. Đặc biệt ở đây có các phòng "cải hối", "chuồng cọp" rất nhỏ hẹp và điều kiện sinh hoạt cực kỳ khắc nghiệt, tù nhân sống chẳng khác gì trong lò thiêu xác. Chế độ ăn uống cực kỳ mất vệ sinh, bọn cai ngục mua gạo mục, cá thối dùng để bón ruộng, chiên bằng dầu luyn cho tù nhân ăn dẫn đến nhiều người bị ngộ độc. Với quyết tâm thoát khỏi nhà tù đế quốc, trở về với Đảng, với nhân dân để tiếp tục chiến đấu, giải phóng dân tộc, ngày 2-12-1956, được sự nhất trí của Liên Tỉnh ủy miền Đông, những chiến sĩ cộng sản bị "câu lưu" trong nhà lao Tân Hiệp dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Trọng Tâm (Bảy Tâm) - phụ trách Đảng ủy nhà tù và một số đồng chí khác đã bất thần làm một cuộc phá xiềng tập thể giải thoát gần 500 đồng chí, đồng bào yêu nước. Sự kiện này đã làm xôn xao cả Lầu Năm Góc. Mỹ - Diệm vội vã huy động cả quân chủ lực lẫn bảo an, dân vệ đang trấn thủ 3 tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một và hai biệt đoàn biệt động quân đến bủa lưới bao vây, truy bắt đoàn tù nhưng đều thất bại. Các đồng chí, đồng bào của ta thoát khỏi nhà lao Tân Hiệp đã được sự giúp đỡ, che chở của các cơ sở địa phương, trở về căn cứ an toàn. Trong số tù nhân vượt ngục có các đồng chí: Bảy Tâm, Hai Thông, Lý Văn Sâm... đã trở thành những hạt nhân nòng cốt cho phong trào Đồng Khởi sau này. Năm 2001, để tái hiện phần nào tội ác của Mỹ - Diệm đối với các đồng chí, đồng bào ta bị giam cầm tại nhà lao Tân Hiệp và diễn tả lại toàn bộ cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp ngày 2-12-1956, Bảo tàng Đồng Nai đã tiến hành sưu tầm hình ảnh, tài liệu, hiện vật trưng bày tại di tích và làm một sa bàn để phục vụ nhu cầu nghiên cứu, tham quan của mọi tầng lớp nhân dân. Hàng ngày, di tích luôn mở cửa đón khách tham quan. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 7126 lượt xem
Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán
Đồng Nai 5040 lượt xem
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh còn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sông Đồng Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thôn Bình Hoành, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị Hòa, xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa, đã được Bộ Văn Hoá – Thông Tin – Thể Thao & Du Lịch xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 25-3-1991. Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 18, ban đầu ngôi đền có qui mô nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người văn võ song toàn, lập được nhiều chiến công lớn và được chúa Nguyễn tin yêu, trọng vọng. Mùa Xuân năm Mậu Dần (1698), ông vâng lệnh chúa Nguyễn vào kinh lược xứ Đàng Trong khi ấy còn rất hoang vu. Đến đất Đồng Nai, ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố (nay là xã Hiệp Hòa); lấy đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, đất đai mở mang ngàn dặm. Ông chiêu mộ lưu dân đến lập nghiệp, tổ chức bộ máy hành chính từng bước có qui củ, khuyến khích khai hoang, thúc đẩy Cù lao Phố phát triển thành một trong những cảng thị sầm uất, năng động nhất đàng Trong suốt thế kỷ 18 và chính thức sáp nhập vùng đất mới phương Nam vào bản đồ Đại Việt. Sau khi kinh lược phương Nam trở về, năm sau ông lại phụng mệnh chúa Nguyễn Phúc Chu thống lĩnh đại binh dẹp vua Chân Lạp giữ vững miền biên ải phương Nam. Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), sau khi hoàn thành sứ mệnh, trên đường trở về đến Rạch Gầm (Tiền Giang) thì ông thọ bệnh qua đời nhằm ngày 16 tháng 5 âm lịch, thọ 51 tuổi. Trên đường di quan ông về quê an táng, quan tài của ông được đình lại khu đất khi xưa ông đặt Đại bản doanh ở Cù lao Phố để cho nhân dân địa phương có dịp bái biệt ông lần cuối. Nơi đình quan đã được nhân dân địa phương xây một ngôi mộ vọng để ghi nhớ sự kiện này. Khi hay tin Nguyễn Hữu Cảnh mất, Chúa Nguyễn vô cùng thương tiếc đã phong tặng ông là Thượng đẳng công thần đặc Trấn phủ Chưởng cơ với tước: Lễ Thành Hầu và đưa bài vị của ông vào thờ tại Thái miếu. Nguồn: Báo Đồng Nai Điện Tử
Đồng Nai 4865 lượt xem
Di tích tòa Đại sứ Mỹ còn được gọi "Nhà trắng phương Đông" là nơi xuất phát các âm mưu thâm độc về quân sự lẫn chính trị nhằm thôn tính lâu dài đất nước Việt Nam, địa điểm di tích là tòa nhà 5 tầng xây dựng theo kiến trúc hiện đại, tọa lạc tại góc đường Mạc Đĩnh Chi - Lê Duẩn, Phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, trên một mảnh đất rộng gần 5.000m2. Trước đó, tòa đại sứ Mỹ nằm tại số 39 đường Hàm Nghi. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30/3/1963, tòa đại sứ Mỹ trên đường Hàm Nghi đã bị đội Biệt động F21 đánh chất nổ làm sập 3 tầng lầu: 1, 2, 3 do đó Mỹ đã quyết định xây lại. Tòa nhà được khởi công xây dựng vào năm 1965, hầu hết vật liệu cũng như máy móc xây dựng đều được chở từ Mỹ sang, dưới sự điều khiển của kỹ sư người Mỹ. Theo thiết kế, tòa nhà bao bọc bởi 7.800 viên đá Taredo có khả năng chống đỡ mìn, đạn pháo. Cửa chính trang bị bằng thép dầy, những cửa khác chắn bởi lớp kín dầy đặc biệt chống đạn. Tất cả cửa sử dụng hệ thống tự động kể cả cửa sắt chắn lối lên các tầng lầu. Bên trong tòa nhà gồm 140 phòng với 200 nhân viên phục vụ ngày đêm ngoài ra bên cạnh tòa nhà còn được xây thêm một dãy nhà phụ gọi là khu "Norodom" dành riêng cho nhân viên C.I.A. Khi khánh thành, tòa nhà chỉ có 3 tầng. Cuối năm 1966 xây thêm 2 tầng và 1 sân thượng dùng làm nơi hạ cánh cho máy bay lên thẳng. Bao quanh tòa nhà là bức tường cao 3m, hai đầu tường sát đường Lê Duẩn xây 2 lô - cốt cao, canh gác ngày đêm. Tòa Đại sứ hoàn thành tháng 9/1967 với một hệ thống phòng thủ như là một pháo đài có 60 lính gác, một hầm tránh bom, một hệ thống màn hình ra-đa nhằm kiểm soát mặt tiền. Ngay sau khi tòa nhà hoàn tất, ngày 24/9/1967, hàng ngàn sinh viên, học sinh kéo đến trước cổng Đại sứ quán Mỹ đấu tranh đòi "Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc", "Mỹ cút về nước" và ra thông báo tố cáo Mỹ "chà đạp và vi phạm nghiêm trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam". Nhưng sự kiện nổi bật xảy ra tại Tòa Đại sứ Mỹ là trận đánh của Biệt động thành trong Tổng Tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968. Mục tiêu đánh Đại sứ quán Mỹ được bổ sung ngày 24/ 1/1968 do Ngô Thành Vân phụ trách chung. Đội Biệt động 11 nhận lãnh nhiệm vụ quan trọng này gồm đội trưởng Út Nhỏ (đội trưởng trinh sát quân khu) và các chiến sĩ: Bảy Truyền, Tước, Thanh, Chức, Trần Thế Ninh, Chính, Tài, Văn, Đực, Cao Hoài Vinh, Mang, Sáu và 2 lái xe: Trần Sĩ Hùng và Ngô Văn Thuận. Một sự kiện khác cũng không kém phần tủi nhục cho Toà Đại sứ Mỹ là cảnh hỗn loạn tháo chạy xảy ra trong 2 ngày 29 và 30/04/1975 của Mỹ và đồng bọn. Trước sức tấn công thần tốc của quân và dân Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, trên 1.000 người Mỹ và hơn 5.000 người Việt thân Mỹ đã chen lấn, xô đẩy, đạp nhau để tranh giành một chỗ trên sân thượng của toà nhà hòng được trực thăng cứu thoát. Di tích này đã được cấp bằng công nhận của Bộ Văn hoá ngày 25/6/1976. Hiện nay, toà nhà Đại Sứ Mỹ đã bị phá bỏ, xây mới thành lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng cạnh đó một bia tưởng niệm ghi nhớ mãi chiến công của các chiến sĩ biệt động đã hy sinh trong trận đánh. Nguồn: Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh
TP Hồ Chí Minh 4492 lượt xem
Thời kỳ nhà Mạc đóng đô ở Cao Bằng, để phòng bị quân nhà Lê tiến đánh, nhà Mạc đã tu bổ, sửa chữa thành Na Lữ (nay thuộc xã Hoàng Tung, Hòa An) và thành Bản Phủ (nay thuộc xã Hưng Đạo), thành Phục Hòa, ngoài ra còn xây dựng nhiều thành lũy khác ở Cao Bằng, làm cho Cao Bằng trở thành một trung tâm chính trị và quân sự ở vùng biên viễn Đông Bắc thời bấy giờ. Thành Na Lữ và thành Phục Hoà là hai thành được xây dựng từ trước. Theo ghi chép của Bế Hựu Cung trong Cao Bằng thực lục, thành Na Lữ và thành Phục Hòa mở đầu từ đời Đường Ý Tông năm Giáp Thân, niên hiệu Hàm Thông thứ 5 (874). Căn cứ vào sự hiện diện của nhiều ngôi mộ cổ có đá khắc ghi bia mộ tên, địa chỉ, quê quán những người phu dịch xây thành chết ở đây từ thời Hàm Thông có thể khẳng định hai thành này xây từ đời Đường. Thành Na Lữ được xây qua nhiều triều đại khác nhau. Khi nhà Mạc lên Cao Bằng đã cho xây lại bằng gạch. Thành Na Lữ có hình gần chữ nhật, có tổng diện tích khoảng 37,5 ha, chiều dài khoảng 800 m, chiều rộng khoảng 600 m, thành có 4 cửa. Thành Bản Phủ tại kinh đô Nam Bình, nước Nam Cương của Thục Phán khi xưa ở Cao Bình (Cao Bằng), nhà Mạc đã tu bổ thành Vương phủ tại vòng trong của kinh đô cũ Nam Bình và được gọi là thành Bản Phủ hay Vương phủ. Tại kinh đô Nam Bình xưa của nước Nam Cương và của nhà Mạc, thành Bản Phủ vẫn còn dấu tích khá rõ nét. Kinh đô Nam Bình gồm có hai vòng thành, để bảo vệ kinh thành, vòng ngoài có chu vi khoảng 5 km, gồm cả một vùng gò đồi thấp, quanh chân đồi được bạt dựng đứng như một bức tường thành, thuận lợi cho việc xây dựng phòng tuyến bảo vệ. Bờ thành phía Tây chạy song song với bờ sông Bằng đến đầu làng Bó Mạ, nối bờ thành Đông Nam chảy qua trước mặt Bản Phủ theo chân đồi ra gặp quốc lộ 4, phía Đông Bắc chạy theo chân đồi sát phía ngoài quốc lộ 4, lên đến Đầu gò là phía Tây Bắc tiếp tục chạy theo chân đồi, ra đến bờ sông gặp bờ thành phía Tây tạo thành một vòng thành khép kín. Khi nhà Mạc lên đóng đô đã tu sửa lại và xây dựng thêm một số công trình, trong đó thành Bản Phủ (thành nội - nơi của vua làm việc) được xây lên cao hơn trên các tường thành cũ từ thời kỳ Thục Phán, thành nằm trên một khu đất bằng phẳng. Cùng với việc xây dựng lại kinh thành, nhà Mạc còn xây dựng một hệ thống đồn bốt, thành lũy khá dày xung quanh kinh đô và một số điểm biên giới quan trọng, tạo thành một hệ thống bảo vệ kinh thành và bảo vệ biên giới. Thành Phục Hòa (huyện Phục Hoà) được xây theo kiểu hình vuông, mỗi chiều khoảng 400 m, gồm hai vòng thành, khoảng cách giữa hai vòng là 80 m. Hiện nay, tường thành phía Nam đã bị phá huỷ hoàn toàn. Thành Phục Hòa có 2 cổng chính: Cổng phía Bắc được mở thông ra quốc lộ đi Cửa khẩu Tà Lùng ngày nay, nhân dân thường gọi là Pác Cổng, cổng này được xây theo kiểu hình chữ nhật, rộng 8 m, cao 5 m, gồm hai cánh cổng làm bằng gỗ nghiến dày rất chắc chắn; cổng thứ hai ở phía Nam, mở thông ra bờ sông. Cả hai cổng đều bị san phẳng từ lâu, hiện nay không còn vết tích. Gần thành, tại phía Tây Bắc ngoại thành dọc bờ sông còn có nhiều vết tích lò nung gạch, nhân dân cho biết trong quá trình lao động, khai phá đã tìm thấy ở khu vực này nhiều lò gạch còn nguyên vẹn. Qua nghiên cứu, khảo sát cho thấy, tại Cao Bằng, nhà Mạc đã tu bổ, tôn tạo và xây dựng thêm nhiều thành, đồn luỹ, trong đó tu bổ, tôn tạo xây lại thành Bản Phủ, thành Na Lữ, thành Phục Hoà. Các đồn luỹ này đã tạo thành một hệ thống liên hoàn bảo vệ kinh thành khá vững chắc. Đến nay, những thành cổ nhà Mạc xây dựng thời kỳ đóng đô ở Cao Bằng, một số thành xây dựng bằng đất chỉ còn vết tích, nhưng các thành được xây bằng đá vẫn còn rất rõ. Nguồn: Báo Cao Bằng điện tử
Cao Bằng 4221 lượt xem
Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh 4087 lượt xem
Đền Bắc Cung (tên gọi nôm là đền Thính) thuộc xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc là một trong bốn cung đền lớn ở quanh vùng núi Ba Vì và châu thổ sông Hồng thờ đức thánh Tản Viên. Các đền: Tây cung, Nam cung, Đông cung ở bên kia sông Hồng thuộc địa phận Sơn Tây, đây là bốn cung đền được nhân dân xây dựng và bảo tồn tương đối cẩn thận. Đền tọa lạc giữa cánh đồng màu mỡ trên khu đất rộng 10.000m2 tựa mình bên những con kênh uốn lượn, bao quanh là làng mạc trù phú, dân cư đông đúc. Hai bên tả mạc, hữu mạc đứng uy nghi và trầm mặc bao lấy khu sân gạch rộng lớn, trông lên một công trình kiến trúc độc đáo. Đền Thính được khởi dựng cách đây 20 thế kỷ trên nền một ngôi miếu nhỏ thờ đức thánh Tản, nơi trước đó ông đã cho quân nghỉ lại trong một lần vi hành giúp dân khai điền trị thủy. Thần phả truyền lại rằng: Đức thánh Tản (tục vẫn gọi là Sơn Tinh) húy là Nguyễn Tuấn, sinh ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Hợi tại động Lăng Xương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Người mồ côi cha từ nhỏ, ở với mẹ và hai anh em họ là Nhuyễn Hiển, Nguyễn Sùng. Hàng ngày, ba anh em vượt sông Đà, sang vùng núi Ba Vì phát rẫy làm nương, tìm kế sinh nhai. Nơi đây, Nguyễn Tuấn đã gặp bà chúa Thượng ngàn, được bà nhận làm con nuôi và ban cho chiếc gậy đầu tử đầu sinh cùng nhiều phép thuật để cứu nhân độ thế. Sau khi chiến thắng Thủy tinh và cưới được công chúa Ngọc Hoa, Người đã từ chối ngôi báu mà Vua Hùng muốn trao, cùng hai em du ngoạn khắp nơi, giúp dân khai điền, trị thủy và được nhân dân nơi nơi tôn kính. Khi đi ngang qua vùng Tam Hồng, Người đã cho quân nghỉ chân, dạy dân trồng lúa, đánh cá…Sau khi ông đi, dân làng kéo tới nơi Đức Thánh nghỉ chân và thấy ở đó còn sót lại một số gói thính nên sau này, đền có tên gọi là đền Thính. Cũng có sự tích lại kể rằng: khi cho quân nghỉ lại nơi đây, đức Thánh Tản đã dậy dân làm thịt Thính nên dân gian mới gọi tên đền như vậy. Từ một ngôi miếu nhỏ, đến đời vua Lý Thần Tông (1072-1128) miếu được xây lại thành đền lớn. Đây là nơi vua đến cầu thọ. Đời Vua Minh Mạng (1820-1840) đền lại được tu sửa nhiều lần. Đến đời vua Thành Thái, Tri huyện Yên Lạc cử bần tăng Thanh Ất trùng tu lại đền, công trình kéo dài đến đời Khải Định thứ 6 mới xong (1900-1921). Trải qua bao thăng trầm, đền tiếp tục được nhân dân địa phương gìn giữ và bảo tồn. Ngày 21/1/1992 đền được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hoá. Hàng năm, lễ hội đền Thính được mở từ ngày mùng 6 tháng Giêng đến hết ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Lễ hội gồm phần lễ tế, rước kiệu của các làng trong và ngoài xã cùng rất nhiều trò chơi dân gian sẽ được tổ chức. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Vĩnh Phúc
Vĩnh Phúc 3936 lượt xem
Mai Xuân Thưởng là người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX ở Bình Định. Mai Xuân Thưởng sinh năm Canh Thân 1860, mất năm Đinh Hợi 1887 người thôn Phú Lạc, tổng Phú phong, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định (nay là thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Cha là Mai Xuân Tín làm Bố chánh ở Cao Bằng, mẹ là Huỳnh Thị Nguyệt con của một nhà quyền quý trong làng. Mai Xuân Thưởng vốn là người thông minh, ham học. Năm 18 tuổi (1878) ông đỗ Tú tài tại Trường thi Bình Định. năm 25 tuổi (1885) thi đỗ cử nhân. Hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, Mai Xuân Thưởng về quê Phú Lạc, chiêu mộ nghĩa binh, lập căn cứ ở hòn Sưng dựng cờ cần vương chống Pháp, sau đó Mai Xuân Thưởng đã đem lực lượng của mình gia nhập vào nghĩa quân do Đào Doãn Địch lãnh đạo và được Đào Doãn Địch phong giữ chức Tán lương quân vụ (phụ trách về lương thực của nghĩa quân). Kể từ đó cho đến năm 1887, phong trào cần vương ở Bình Định phát triển mạnh mẽ và lan ra đến Quảng Ngãi, Phú Yên...thu hút hàng chục ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia. Ngày 20/9/1885 Đào Doãn Địch mất, giao toàn bộ lực lượng cho Mai Xuân Thưởng. Ông chọn vùng núi Lộc Đổng (nay thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn) làm đại bản doanh và tổ chức lễ tế cờ , truyền hịch kêu gọi sỹ phu, văn thân, nhân dân tham gia phong trào cần Vương chống Pháp. Trong buổi lễ ấy, nghĩa quân nhiều vùng trong tỉnh Bình Định đã nhất trí suy tôn ông làm Nguyên soái lãnh đạo cuộc khởi nghĩa và nêu cao khẩu hiệu: “Tiền sát tả, hậu đả Tây”. Đầu năm 1887, quân Pháp dưới sự chỉ huy của Trung tá Cherrean và quân triều đình do Trần Bá Lộc chỉ huy cùng với Công sứ Trira đã mở cuộc tấn công lớn lên căn cứ đại bản doanh của phong trào Cần Vương Bình Định, trận giao chiến giữa lực lượng nghĩa quân với giặc Pháp diễn ra vô cùng ác liệt, cuộc chiến đấu không cân sức, cuối cùng lực lượng khởi nghĩa bị đẩy lùi. Tháng 3 năm 1887, sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng, nghĩa quân rút về Mật khu Linh Ðổng. Ngày 21 tháng 4 năm 1887, Trần Bá Lộc bao vây đánh chiếm căn cứ mật khu Linh Đổng và bắt được một số nghĩa quân, trong đó có thân mẫu Mai Nguyên Soái. Đêm 30 tháng 4 năm 1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại Trần Bá Lộc, giải vây cho những người bị bắt, ông cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt núi vào Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phú Quý (ranh giới giữa Bình Định và Phú Yên) thị bị phục binh Trần Bá Lộc bắt và đưa ra xử trảm tại Gò Chàm (Phía đông Thành Bình Định). Di tích Lăng mộ nhà yêu nước Mai Xuân Thưởng tọa lạc trên ngọn đồi cao của dãy núi Ngang (thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cách thành phố Quy Nhơn khoảng 50km về hướng Tây Bắc; Lăng mộ được xây dựng trên khu đất rộng 1988m2, khánh thành ngày 22 tháng 1 năm 1961.Về tổng thể, Lăng được thiết kế theo kiểu lăng mộ cổ, xung quanh có thành thấp bao bọc. Cổng Lăng (tam quan) là 4 trụ vuông, phía trên thắt lại theo kiểu bầu lọ mang dáng dấp kiến trúc cổng đình, miếu cuối thế kỷ XIX. Giữa nhà Lăng là mộ phần Mai Xuân Thưởng hình khối chữ nhật theo hướng Đông - Tây; Phía đầu mộ dựng tấm Bia đá khắc bài ký ghi tiểu sử và sự nghiệp của Mai Xuân Thưởng: Di tích được Bộ Văn hóa Thông tin quyết định xếp hạng cấp Quốc Gia ngày 20 tháng 4 năm 1995. Nguồn: UBND Huyện Tây Sơn tỉnh Bình Định
Bình Định 3926 lượt xem
Di tích Ngã Ba Giồng là di tích lịch sử cách mạng thuộc Ấp 5, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn. Được bao quanh bởi ba con đường: Phan Văn Hớn, Nguyễn Văn Bứa và tỉnh lộ 19. Khu di tích Ngã Ba Giồng là khu tưởng niệm về những sự kiện lịch sử trong hai cuộc khácg chiến chống ngoại xâm. Được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 2002. Ngã ba Giòng (còn có tên gọi đầy đủ là Ngã ba Giòng Bằng Lăng) nằm trên địa phận thôn Xuân Thới Tây thuộc 18 thôn vườn trầu xưa được hình thành từ những năm 1698 đến năm 1731. Từ lâu đời, Ngã ba Giồng là 1 địa danh có tên gọi dân gian đã đi vào lịch sử của quê hương 18 thôn vườn trầu Hóc Môn – Bà Điểm. Tục truyền rằng xưa kia nơi đây là 1 vùng đất giồng tương đối cao ráo và là nơi mọc nhiều cây bằng lăng nên địa danh này có tên gọi từ đó. Sau khi cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940) bị thất bại, thực dân Pháp đã tăng cường đàn áp, khủng bố khốc liệt phong trào cách mạng vùng Hóc Môn – Bà Điểm. Chúng đã lập ra ở Hóc Môn 3 trường bắn để giết hại các đồng chí lãnh đạo Đảng, các đồng chí đồng bào yêu nước của quê hương Hóc Môn và các vùng lân cận. Ngã ba Giồng là trường bắn thứ ba ghi lại tội ác tày trời của giặc pháp và bọn tay sai đối với nhân dân Hóc Môn. Rút kinh nghiệm từ 2 trường bắn trước (1 tại rạp hát cũ trung tâm Quận lỵ Hóc Môn, 1 cạnh giếng nước sau Bệnh viện Hóc Môn ngày nay), chúng xử bắn công khai, bắt nhân dân đến xem nhằm mục đích uy hiếp tinh thần cách mạng của nhân dân Hóc Môn. Nhưng cách xử bắn đó đã phản tác dụng, nhân dân Hóc Môn đã tận mắt chứng kiến sự tàn ác của thực dân Pháp, sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ cộng sản nên ngọn lửa yêu nước của họ càng bùng lên mãnh liệt. Trường bắn thứ 3 này, chúng không dám xây dựng gần trung tâm Quận lỵ nữa mà đưa ra khu vực Ngã ba Giồng là vùng hoang vắng, thưa dân để tránh sự phản kháng của nhân dân. Tại đây, chúng xây dựng thành 1 trường bắn có mô đất kiên cố dài 12m, cao 2,2m, phía trước có trồng 6 cột bắn, mỗi cột cao 1.7m, hướng bắn quay về phía đồng ruộng (bưng Tràm Lạc). Vào năm 1941, tại đây chúng lén lúc xử bắn rất nhiều lần, không cho nhân dân xem, hàng trăm chiến sĩ cộng sản và đồng bào yêu nước bị chúng giết hại. Với ý nghĩa lịch sử vô cùng thiêng liêng của Ngã ba Giồng, nơi ghi dấu tội ác dã man của giặc Pháp, nơi thể hiện ý chí chiến đấu bất khuất kiên cường và sự hy sinh cao cả của đồng chí và đồng bào ta sau cuộc khởi nghĩa Nam kỳ (23/11/1940); sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), huyện Hóc Môn đã nhanh chóng khôi phục và tôn tạo khu di tích lịch sử cách mạng Ngã ba Giồng nhằm giáo dục truyền thống cho các thế hệ thanh thiếu niên. Nơi đây đã trở thành điểm tham quan, nơi tổ chức lễ hội truyền thống trong những ngày lễ lớn hàng năm của huyện Hóc Môn và thành phố đặc biệt là lễ kỷ niệm ngày Nam kỳ Khởi nghĩa (23/11). Hiện nay được sự nhất trí của thành phố, huyện đang tiến hành tôn tạo xây dựng Ngã ba Giồng thành “Khu tưởng niệm liệt sĩ Ngã ba Giồng”. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Hóc Môn
TP Hồ Chí Minh 3820 lượt xem