Ứng dụng thuyết minh tự động khám phá 63 tỉnh thành Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel

Tải ứng dụng 63Stravel

Logo 63stravel

Di tích lịch sử

Việt nam

Di tích chiến thắng La Ngà

Di tích chiến thắng La Ngà (tại km số 104-112 trên quốc lộ 20 đi Đà Lạt, thuộc xã Phú Ngọc, huyện Định Quán) được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 12-12-1986. Để cổ vũ cho chiến thắng Việt Bắc thu - đông 1947 và cũng để giáng cho kẻ thù một đòn chí mạng, Ban chỉ huy chi đội 10 đã quyết định phải tổ chức một trận đánh lớn, để quân giặc thấy rằng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam không dễ dàng chịu khuất phục trước bất kì một kẻ thù nào; Bằng tinh thần quả cảm và sự khôn khéo sau gần nửa năm chuẩn bị, nghiên cứu địa hình, chọn địa điểm: vào lúc 15 giờ 12 phút ngày 1/3/1948 trận chiến phục kích La Ngà bắt đầu và kết thúc vào lúc 15 giờ 57 phút cùng ngày, chỉ trong vòng 45 phút. Chiến thắng La Ngà đã làm nức lòng nhân dân Định Quán nói riêng, quân dân Đồng Nai nói chung. Đây là chiến thắng thể hiện sự mưu trí, dũng cảm của quân và dân ta làm cho địch một phen kinh hồn, bạt phía. Từ chiến thắng này lực lượng ta ngày càng thêm lớn mạnh, góp phần đánh bại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của địch, buộc chúng phải rơi vào thế bị động. Quần thể danh thắng đá Chồng, Thác Mai, sông La Ngà và Tượng đài chiến thắng La Ngà là một quần thể du lịch kì thú của Định Quán. Vẻ đẹp kỳ thú của Hòn Ba Chồng, Núi Đá Voi, Hòn Dĩa, cùng với ngôi chùa thiên nhiên dưới chân núi đá là những cụm tiêu biểu tạo thành cảnh đẹp hài hòa cho khu danh thắng Đá Chồng. Quần thể Đá Chồng Định Quán còn là nơi lưu lại những dấu tích của cuộc sống người tiền sử. Tại đây dưới các mái đá, ven các khe suối và cả các sườn dốc ven thung lũng đã phát hiện nhiều công cụ sản xuất, sinh hoạt của người xưa bằng đá, đồng, đất nung. Trong suốt cuộc kháng chiến dài 30 năm. Định Quán là một phần quan trọng của Chiến khu Đ. Đá Chồng đã chứng kiến sự hình thành, phát triển, trú quân, triển khai chiến đấu của lực lượng cách mạng. Ngày nay, một phần đất của khu danh thắng Đá Chồng Định Quán đã được sử dụng, xây dựng thành khu Trung tâm văn hóa thể thao huyện Định Quán. Tương lai không xa khu danh thắng Đá Chồng Định Quán sẽ được đầu tư tôn tạo góp phần làm cho cảnh quan thiên nhiên ngày càng tươi đẹp, là địa điểm du lịch sinh thái hấp dẫn. Nguồn: Uỷ Ban Nhân Dân Huyện Định Quán

Đồng Nai 4993 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Mộ cự thạch Hàng Gòn Đồng Nai.

Mộ Cự thạch Hàng Gòn (còn gọi Di chỉ Hàng Gòn 7, Mộ Đông Dương, Mả Ông Đá), thuộc xã Hàng Gòn, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, gồm: Khu hầm mộ (phát hiện năm 1927) và Khu chế tác (phát hiện năm 1995). Năm 2011, di tích được tu bổ, tôn tạo với tổng mặt bằng là 37.120m2, với các hạng mục: Khu hầm mộ, khu chế tác, miếu Ông Đá, miếu Thổ thần, các công trình phụ trợ (cổng, hàng rào, sân đường nội bộ, nhà trực ban - bán vé, nhà bao che, nhà đón tiếp - trưng bày, nhà điều hành). 1. Khu hầm mộ: Di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn hiện nay so với phát hiện vào năm 1927 vẫn còn giữ nguyên được cấu trúc, hiện trạng hầm mộ. Tuy nhiên, khu di tích dạng hầm mộ được chôn sâu trong lòng đất, so với bình diện của mặt đất hiện nay khoảng 3m. 2. Khu chế tác: Khu chế tác nằm ở phía Tây Nam của cổng chính và phía Đông Nam Khu hầm mộ. Cuộc khai quật năm 1996, đã phát lộ một số tấm đan đá hoa cương và hai trụ đá sa thạch có đầu đấu chéo vào nhau, cùng nhiều phế liệu đá hoa cương và đá cuội. 3. Miếu Ông Đá: mặt bằng dạng chữ Đinh, gồm Chánh điện và Nhà bếp. Chánh điện diện tích 51,84m2 được xây kiểu tứ trụ (nhà vuông, 4 cột), quay về hướng Đông. Hệ thống cột được làm bằng bê tông cốt thép, sơn giả gỗ. Ba vách tường được xây kín, mặt tiền để thông thoáng với cách bố trí ba cửa được làm bằng gỗ gõ đỏ, phần dưới để trơn, phần trên chạm lộng hình hoa mai. 4. Miếu Thổ thần: nằm cách Miếu Ông Đá khoảng 3m về phía Tây Bắc, diện tích 4m2, xây bằng gạch, sơn màu vàng, mái lợp tôn giả ngói màu đỏ, bên trong có một bàn thờ Thổ thần. 5. Các công trình phụ trợ khác: Cổng chính: Cổng phụ. Hệ thống hàng rào. Nhà Trực ban - Bán vé. Nhà bao che. Hệ thống tường khu hầm mộ gồm: Nhà trưng bày và Nhà điều hành. Di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn là kiến trúc cổ bằng đá với quy mô kích thước, chất liệu xây dựng và kiểu thức độc đáo ở Việt Nam. Mộ Cự thạch Hàng Gòn đã góp phần làm đa dạng loại hình dolmen (mộ đá lớn) trên toàn thế giới. Trong quá trình khai quật tại di tích, các nhà khoa học đã thu được nhiều hiện vật có giá trị, đa dạng về chủng loại. Di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn là công trình kiến trúc liên quan đến hình thức tín ngưỡng của cư dân cổ Đồng Nai, bổ sung cho nhận thức về thế giới quan, nhân sinh quan trong quá trình đấu tranh, tồn tại và sáng tạo văn hóa của nhân loại. Sinh hoạt tín ngưỡng tại di tích mộ Cự thạch Hàng Gòn là tục thờ “Ông Đá”, với ước vọng “Ông Đá” giúp cho người dân được sống cảnh an lành “phong điều vũ thuận”, “quốc thái dân an”... Hằng năm, vào ngày 13 tháng Chín Âm lịch lễ cúng “Ông Đá” được tổ chức, gồm các nghi thức chính: rước Ông Đá từ Khu hầm mộ về miếu Ông Đá, tổ chức lễ cúng tại miếu và hồi Ông Đá về Khu hầm mộ và nhiều hoạt động văn hóa như: Hội thi mâm ngũ quả, biểu diễn múa lân, múa rồng ... Với giá trị tiêu biểu, di tích lịch sử, khảo cổ Mộ Cự thạch Hàng Gòn được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt ngày 23/12/2015. Nguồn: Cục di sản văn hoá

Đồng Nai 2921 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Địa điểm chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô

Tàu Ô là tên gọi xuất phát từ suối Tàu Ô chảy ngang qua Quốc lộ 13 thuộc ấp 4, xã Tân Khai. Trong Chiến dịch Nguyễn Huệ, chốt chặn Tàu Ô có vị trí cách cống Tàu Ô (đoạn suối Tàu Ô chảy qua Quốc lộ 13) khoảng 400m về hướng Bắc. Đây là một điểm chốt quan trọng trong hệ thống chốt chặn của Sư đoàn 7. Chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô đã góp phần vào thành tích chung của Chiến dịch Nguyễn Huệ trong Cuộc tiến công chiến lược năm 1972, góp phần đưa cuộc kháng chiến của dân tộc ta bước sang giai đoạn toàn thắng cả về quân sự và trên nghị trường, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán hòa bình, ký Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Để tưởng nhớ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 7, quân và dân địa phương trong Chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972 đã hy sinh vì nền độc lập dân tộc, năm 2009, được sự quan tâm về vật chất của Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bình Phước, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Ban liên lạc Cựu Chiến binh Sư đoàn 7, Sư đoàn 7 đã tổ chức xây dựng công trình Tượng đài chiến thắng Tàu Ô trên diện tích 11.451,7m2. Công trình gồm 2 hạng mục chính: Nhà bia tưởng niệm và Tượng đài chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô. Di tích đã trở thành địa chỉ đỏ của các chuyến về nguồn, tham quan, học tập của nhân dân trong và ngoài tỉnh. Di tích Địa điểm Chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô là di tích tiêu biểu, có ý nghĩa, giá trị lịch sử to lớn. Ngày 29/3/2012, di tích Địa điểm Chiến thắng Chốt chặn Tàu Ô được Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Phước

Bình Phước 1677 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng

Di tích Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng tọa lạc tại xã Thuận Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. Nơi đây, vào ngày 28/10/1929, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập làm nền móng sau này cho phong trào cách mạng của công nhân cao su tại khu vực Đông Nam bộ. Đồn điền cao su Phú Riềng thuộc Công ty Michelin được thành lập tại làng Phú Riềng, quận Bà Rá, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc Công ty Cổ phần Cao su Đồng Phú). Khi đầu tư khai thác và phát triển cao su tại đây, tư bản Pháp đã tuyển mộ hàng trăm nghìn người từ các tỉnh miền Bắc, miền Trung vào Nam để làm dân phu. Dưới sự hỗ trợ của bộ máy chính quyền thuộc địa, tư bản Pháp đã bóc lột nặng nề và tàn nhẫn sức lao động của những người dân phu như: Đánh đập, cúp phạt lương, tra tấn, chế độ làm việc hà khắc, không chỗ ở, đói cơm, thiếu áo, sống trong cảnh “địa ngục trần gian”, khiến cho “Mỗi cây cao su mọc lên là có một người công nhân ngã xuống”. Những người công nhân chỉ biết phản ứng bằng những hình thức tự phát như chặt cây cao su, biểu tình, bỏ trốn… nhưng tất cả đều bị đàn áp khốc liệt. Trước tình hình đó, năm 1928, đồng chí Nguyễn Xuân Cừ được Kỳ bộ Thanh niên Cách mạng đồng chí hội Bắc kỳ cử đi “vô sản hóa” ở đồn điền cao su Phú Riềng. Để lãnh đạo các phong trào đấu tranh của công nhân, tháng 4/1928, tổ chức Thanh niên cách mạng Đồng chí hội được thành lập do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm Bí thư cùng với đồng chí Trần Tử Bình, đồng chí Phạm Thư Hồng, đồng chí Tạ, đồng chí Hòa, đồng chí Doanh và đồng chí Song. Đây chính là bộ phận đầu não lãnh đạo các hoạt động đấu tranh của công nhân cao su Phú Riềng. Từ tổ chức cơ sở này, thực hiện chủ trương phát triển tổ chức Đảng, ngày 28/10/1929, bên bờ suối Làng 3, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng, còn gọi là Chi bộ Phú Riềng được thành lập, do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm Bí thư. Đây là chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên của tỉnh Bình Phước và đồng thời là chi bộ đầu tiên của ngành cao su Việt Nam. Sự ra đời của Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng – Chi bộ Phú Riềng đã đáp ứng kịp thời yêu cầu đấu tranh cách mạng, nhanh chóng lãnh đạo công nhân cao su đòi quyền lợi bằng các hình thức đấu tranh khác nhau, có tổ chức, kế hoạch với nhiều hình thức. Trong đó, điển hình là cuộc bãi công của 5.000 công nhân cao su năm 1930 làm nên “Phú Riềng Đỏ” anh hùng, phá tan “Địa ngục trần gian”. Sau 8 ngày (từ ngày 30/01/1930 đến 06/02/1930), cuộc đấu tranh đã giành thắng lợi to lớn, ảnh hưởng sâu rộng, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam lên một bước thắng lợi và là mốc son lịch sử trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của đất nước. Di tích Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng là nơi ghi dấu giá trị, tầm quan trọng của đường lối đúng đắn và quá trình phát triển mạnh mẽ của tổ chức Đảng. Ngày nay, “Phú Riềng Đỏ” năm xưa trở thành mảnh đất bạt ngàn cao su, đóng góp “vàng trắng” xây dựng và kiến tạo quê hương Bình Phước ngày càng giàu đẹp. Năm 1985, Công ty Cổ phần Cao su Đồng Phú đã xây dựng đài tưởng niệm, đến năm 2019, Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam đầu tư tôn tạo di tích Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng khang trang hơn. Ngày nay, di tích Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng là địa chỉ ôn lại truyền thống đấu tranh cách mạng, khẳng định và nâng cao niềm tự hào đối với những đóng góp của công nhân cao su nói riêng, giai cấp công nhân, quân dân Bình Phước nói chung đối với sự nghiệp giành độc lập dân tộc. Với những giá trị lịch sử tiêu biểu đó, ngày 12/02/1999, di tích Địa điểm thành lập Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Phú Riềng được Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước

Bình Phước 2582 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Núi Bà Rá – Thác Mơ

Núi Bà Rá nằm trên địa phận phường Sơn Giang, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước. Đây là một trong 3 ngọn núi cao và hùng vĩ nhất Nam Bộ. Truyền thuyết kể rằng vị tổ của người S’Tiêng có hai người em gái; ông đắp núi Bà Đen cho cô em gái đầu và đắp núi Bà Rá cho người em gái thứ hai để trấn giữ đất đai của người S’Tiêng. Đồng bào S’Tiêng gọi ngọn núi này với cái tên đầy thành kính: “Bơnom Brah”, có nghĩa là “ngọn núi Thần” hay “Thần Núi Yang Yumbra” là vị thần được tôn thờ trên đỉnh núi Bà Rá. Đồng bào Khmer gọi là núi “ Chân Phật”. Với độ cao 723m, địa hình hiểm trở nên núi Bà Rá là nơi ghi dấu nhiều chiến tích anh dũng kiên cường cũng như có nhiều giai thoại, gắn liền các sự kiện lịch sử quan trọng. Tại nơi đây, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là căn cứ hoạt động của những chiến sĩ cách mạng. Đây được xem là căn cứ địa cách mạng vững chắc. Từ năm 1925 đến năm 1941, thực dân Pháp cho xây tại chân núi một nhà tù lớn gồm có 3 camp (trại): Camp A giam cầm bọn trộm cướp lưu manh; Camp B giam cầm nữ tù nhân, chính trị phạm, những người bị tình nghi là cộng sản nhưng không thành án; Camp C giam cầm tù chính trị. Bọn cai tù dùng nhiều thủ đoạn dã man để tra tấn tù nhân, nhưng với tinh thần tự cường các chiến sĩ cộng sản đã biến nhà tù này thành nơi đấu tranh chính trị với thực dân Pháp. Ngọn núi “Thần” này gắn liền với cuộc kháng chiến của người dân Phước Long nói riêng và dân tộc ta nói chung, tại Đồi Bằng Lăng đã xây dựng một nhà bia và một đền tưởng niệm để tưởng niệm các chiến sĩ, quân dân đồng bào đã hi sinh trong kháng chiến ở khu vực Bà Rá. Núi Bà Rá là một thắng cảnh đẹp nổi tiếng với dòng sông Bé uốn quanh co, với Thác Mẹ, Thác Mơ, rừng cây với hệ thực vật đa dạng phong phú được Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) xếp vào hệ thống rừng đặc chủng của cả nước. Từ Đồi Bằng Lăng, bước lên 1.767 bậc đá là lên đến đỉnh núi, đường lên núi khá đẹp được bao phủ bởi một màu xanh nào là trúc, lồ ô, đặc biệt hai bên đường đi có nhiều cổ thụ ướm chừng vài trăm năm tuổi. Trên đỉnh có ngọn ăng ten của Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Phước, cao 48m nhằm đưa sóng truyền hình đến những vùng sâu, vùng xa trong tỉnh. Ở đây còn có một miếu thờ Đức Phật thánh mẫu Thiên Hậu và bà chúa xứ (núi Bà Rá) rất linh thiêng, đang có dự án xây dựng khu tâm linh Phật giáo gắn với du lịch sinh thái tại di tích. Núi Bà Rá còn có hang Dơi, hang bà Bảy Tuyết sâu, rộng rất đẹp. Đây là nơi ẩn trú của quân, dân ta trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Với những giá trị to lớn, di tích Núi Bà Rá – Thác Mơ đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận xếp hạng là di tích lịch sử và thắng cảnh quốc gia ngày 20/4/1995. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Phước

Bình Phước 2122 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Cuộc nổi dậy của đồng bào S’tiêng – xã Phú Riềng chống thực dân Pháp

Di tích Cuộc nổi dậy của đồng bào S’tiêng – xã Phú Riềng chống thực dân Pháp ngày 25/10/1933 (còn được gọi là Mả thằng Tây) tọa lạc tại ngã tư Phú Riềng, xã Phú Riềng, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước. Địa điểm này do thực dân Pháp xây dựng năm 1933 để tưởng nhớ Quận trưởng More – một trong những tên cầm quyền khét tiếng tàn ác của thực dân Pháp trên địa bàn quận Bà Rá thời bấy giờ. Trong những năm đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp đẩy mạnh trồng và khai thác cao su ở Nam Kỳ, trong đó có quận Bà Rá thuộc tỉnh Biên Hòa. Pháp xem vùng này là rừng thiêng nước độc và thường gọi với cái tên mỉa mai là “xứ mọi cà răng căng tai”. Chúng biến đây thành nơi đày ải những người chống đối và bắt lao động khổ sai phục vụ cho bọn tư bản đồn điền cao su. Đồng thời, tại đây, chính quyền thực dân Pháp đã thực hiện chính sách chiếm hữu thâm độc, dùng mọi thủ đoạn vắt kiệt sức lao động và làm nhục sắc tộc của đồng bào S’tiêng. Vì bản sắc dân tộc và không thể tiếp tục cuộc sống khắc nghiệt, đồng bào S’tiêng đã đứng lên đấu tranh để chống lại kẻ thù. Năm 1933, hai anh em Điểu Môn và Điểu Mốt (tại Sóc Bù Sum) từng tham gia phong trào nghĩa quân của thủ lĩnh N’Trang Lơng vào những năm 1920, đã đứng lên vận động, quy tụ được khoảng 200 thanh niên dân tộc S’tiêng tham gia nghĩa quân. Sau khi được thành lập, nghĩa quân đã bàn bạc, lên kế hoạch tiêu diệt Quận trưởng More. Ngày 25/10/1933, nghĩa quân tổ chức mai phục, More cưỡi ngựa thúc lính tra xét dân “đi xâu” (đi phục dịch, làm việc không công) thì rơi vào ổ phục kích của nghĩa quân. Quận trưởng More và binh lính tháp tùng đã bị nghĩa quân của ông Điểu Môn và Điểu Mốt tiêu diệt. Thực dân Pháp sau khi đàn áp cuộc nổi dậy của nghĩa quân đồng bào S’tiêng đã lập bia tưởng niệm tên Quận trưởng More. Nhưng đối với nhân dân ta, đây là nơi ghi dấu chiến tích vang dội, một chiến công đã đi vào lòng mỗi người dân Bà Rá, có ý nghĩa và giá trị lịch sử vô cùng to lớn, góp phần giáo dục lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh giành độc lập tự do của đồng bào S’tiêng nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Với những giá trị tiêu biểu, ngày 29/5/1989, Bộ trưởng Bộ Văn hóa quyết định xếp hạng di tích Cuộc nổi dậy của đồng bào S’tiêng – xã Phú Riềng chống thực dân Pháp ngày 25/10/1933 là di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước

Bình Phước 2269 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Sân bay quân sự Lộc Ninh

Sân bay quân sự Lộc Ninh nằm cách trung tâm thị trấn Lộc Ninh khoảng 500m. Sân bay được lắp ghép toàn bộ bằng những vỉ sắt (Tec-nich) thay cho bê tông, nằm trên một khu đồi bằng phẳng có diện tích 50.000m2. Đây là sân bay được Mỹ ngụy xây dựng ngày 10/3/1965 để sử dụng cho việc tiếp tế lương thực, đạn dược và di chuyển phương tiện chiến tranh cho Lộc Ninh - Campuchia. Do thời gian và nhiều yếu tố khác, sân bay quân sự Lộc Ninh không còn được nguyên vẹn như xưa, chỉ còn lại đường băng không còn những tấm vỉ sắt. Sau ngày Lộc Ninh được giải phóng ngày 07/4/1972, sân bay thuộc về chính quyền cách mạng lâm thời, là nơi đánh dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng: ngày 31/01/1973, Thượng tướng Trần Văn Trà dẫn đầu phái đoàn quân sự Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam bay về Sài Gòn dự phiên họp đầu tiên của Ban liên hiệp Quân sự bốn bên tại trại Davis (Sài Gòn). Cũng tại đây, ngày 12/02/1973 ta trao trả 27 sỹ quan, binh lính và nhân viên quân sự Mỹ, họ đã cảm ơn bộ đội ta đã giúp họ thoát chết và được trở về đoàn tụ với gia đình, chúng ta cũng đã đón hàng trăm người con ưu tú, trung kiên từ các nhà tù của Mỹ - Ngụy trở về, giữa hai hàng quân ngụy lăm lăm tay súng, anh chị em tù nhân không nhấc nổi bước chân, họ phải dìu, cõng nhau đi, lột bỏ quần áo tù nhân và hô to khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập tự do” . Hàng ngàn đồng bào Lộc Ninh tay cầm cờ hoa để đón chào những người chiến thắng trở về trong niềm xúc động khôn tả, nước mắt rơi đầy (trích Lộc Ninh lịch sử và truyền thống (1930 -2000)). Từ ngày 12/02/1973 đến ngày 28/3/1973, đã diễn ra 4 đợt trao trả tù binh tại sân bay này và cùng với 5 địa điểm khác trên cả nước, đã trao trả 26.492 người, các tháng tiếp sau đó tháng 4, 5, 6, ta vẫn tiếp tục trao trả tù binh. Ngày 7/3/1974, nhóm tù binh cuối cùng được trao trả, trong đó có bà Võ Thị Thắng, hình ảnh nụ cười của bà - người nữ sinh đấu tranh cho độc lập dân tộc bị cầm tù khi bước xuống sân bay quân sự Lộc Ninh. Đó là một hình ảnh đẹp không thể nào quên. Nụ cười ấy đã đi vào thơ văn như một hình ảnh thật đẹp: “Rất tự nhiên người con gái đó, đã đem nụ cười vào lịch sử ngàn năm” và nụ cười ấy cũng chứng minh cho câu nói đanh thép trước đó của bà "Liệu chính quyền các ông có tồn tại đến 20 năm để cầm tù tôi không?". Cũng tại đây ngày 12/9/1973, ta đón đoàn Ủy ban quốc tế và các vị đại sứ, trưởng phó đoàn của Ủy ban quốc tế về thăm và làm việc tại Lộc Ninh. Sau này nhiều người Mỹ đã tìm đến chiến trường xưa trong các chuyến du lịch Việt Nam để nhớ lại “Lộc Ninh ngày ấy”. Lịch sử đã sang trang, quá khứ đã khép lại nhưng với họ Lộc Ninh ngày ấy không bao giờ là dĩ vãng. Di tích Sân bay quân sự Lộc Ninh không chỉ là niềm tự hào mà còn là bằng chứng tố cáo tội ác xâm lược của bọn đế quốc, bè lũ tay sai của chúng, qua đó để giáo dục tinh thần cách mạng, truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cũng như thu hút khách du lịch khi đến với tỉnh Bình Phước. Sân bay Lộc Ninh được Bộ Văn hóa công nhận xếp hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 12/12/1986. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Phước

Bình Phước 1931 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam

Di tích lịch sử Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một ngôi nhà tại Thị trấn Lộc Ninh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, đoạn cuối đường Hồ Chí Minh – con đường chiến lược Bắc – Nam. Ngày 7/4/1972, Lộc Ninh được hoàn toàn giải phóng. Đây là huyện đầu tiên giải phóng trên toàn miền Nam. Từ đó, Lộc Ninh là nơi tập trung các cơ quan Chính trị, Quân sự, Hậu cần… Đặc biệt là Nhà Giao tế – Trụ sở của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngôi nhà được xây dựng từ năm 1911, là văn phòng làm việc của công ty cao su Xét – Xô của Pháp, để quản lý việc khai thác mủ cao su ở Lộc Ninh. Nhà được xây dựng theo lối nhà sàn của đồng bào dân tộc thiểu số, cho nên nhân dân trong vùng vẫn quen gọi là Nhà “Cao Cẳng”. Trong chiến dịch Nguyễn Huệ (1972), ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn. Tháng 03/1973, trước nhu cầu tình hình công tác trên mặt trận ngoại giao, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam thống nhất chọn vị trí nền ngôi nhà “Cao Cẳng” để xây dựng trụ sở cách mạng với đồ án bản vẽ thiết kế của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Ngôi nhà xây dựng để đón tiếp các phái đoàn ngoại giao trong và ngoài nước nên gọi là “Nhà Giao tế”. Sau hơn một tháng thi công, công trình bề thế, khang trang đã được hoàn thành, gồm một trệt và một lầu. Tầng trệt xây dựng bằng bê tông chắc chắn, dùng để hội họp, mitting và cũng là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa văn nghệ. Tầng lầu được xây dựng bằng gỗ, có lan can bao quanh được thiết kế theo kiểu phòng khánh tiết, mái tôn “5 nóc, 4 mái” được sơn đỏ. Tại phòng này, năm 1973 đã diễn ra hội nghị quân sự bốn bên giữa Việt Nam và Mỹ; Hội nghị bốn bên bàn về các điều khoản đã được ký trong Hiệp định Paris dưới sự giám sát của Ủy ban Quốc tế ICCS, gồm bốn nước thành viên: Ba Lan, Canada, Hunggary và Indonexia. Trong thời gian họp đều có sự phân chia rõ ràng từ lối đi, vị trí ngồi họp và vị trí ngồi nghỉ trong giờ giải lao… đều được bố trí riêng biệt. Đại diện của bốn phái đoàn ngồi họp trong một bàn tròn lớn, Ủy ban Quốc tế ngồi họp trong cùng một bàn tròn nhỏ, bốn bàn nhỏ bốn góc nhà là vị trí ngồi của tùy viên bốn bên. Tất cả đều đặt dưới lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Hai bên có hai cầu thang đi lên. Nhìn từ trong ngôi nhà nhìn ra, cầu thang phía bên phải là lối đi của Quân đội nhân dân Việt Nam, bên trái là lối đi của quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Việc chọn bàn vuông hay bàn tròn để ngồi họp cũng là vấn đề mà các bên quan tâm. Khi họp ở trại David (Sài Gòn) hay họp ở Paris, Ban liên hợp quân sự bốn bên đã sử dụng bàn vuông hay bàn hình chữ nhật để ngồi họp nhưng khi họp ở Nhà Giao tế thì lại chọn bàn tròn. Bởi bàn tròn là thể hiện sự bình đẳng và tôn trọng giữa các bên, còn nếu là bàn vuông hay bàn hình chữ nhật thì một trong bốn bên khi đứng lên phát biểu trong cuộc họp thì giống như bên đó là chủ tọa cuộc họp. Còn sử dụng bàn tròn thì các bên đều ngang hàng như nhau. Nhà Giao Tế ra đời đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, là chứng tích chứng minh về sự thất bại của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, bên cạnh đó là sự đấu tranh anh dũng, khôn khéo của quân và dân ta trên cả hai mặt trận quân sự và ngoại giao trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Di tích Trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Nhà Giao tế) đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia ngày 12/12/1986. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Phước

Bình Phước 1835 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Mộ 3000 đồng bào An Lộc bị đế quốc Mỹ tàn sát ngày 03/10/1972

Di tích Mộ 3.000 đồng bào An Lộc bị đế quốc Mỹ tàn sát ngày 03/10/1972 (còn gọi là Mộ tập thể 3.000 người) tọa lạc tại phường An Lộc, thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước, là một trong những chứng tích ghi dấu tội ác chiến tranh mà Mỹ – ngụy đã gây ra cho nhân dân ta nói chung và nhân dân Bình Long nói riêng trong kháng chiến chống Mỹ. Năm 1971, thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp thông qua quyết tâm đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ và tay sai, Chiến dịch Nguyễn Huệ được mở với hướng tấn công chủ yếu trên đường 13 và khu vực quyết chiến Lộc Ninh, An Lộc thuộc tỉnh Bình Long. Ngày 07/04/1972, Lộc Ninh hoàn toàn giải phóng, quân ta tiếp tục tiến công nhằm giải phóng thị xã An Lộc. Trước sự tấn công như vũ bão của bộ đội chủ lực, địch ra sức giữ thị xã vì An Lộc mất thì Bình Long mất và “Bình Long mất, Sài Gòn không còn”. Trong suốt 32 ngày đêm (từ ngày 13/04 đến 15/05/1972), chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt, địch tập trung lượng lớn hỏa lực, pháo, đạn, bom cày nát mặt đất, hàng ngàn đồng bào bị sát hại, tài sản, nhà cửa bị phá hủy nặng nề. Địch còn nhẫn tâm cho máy bay B52 thả bom vào bệnh viện thị xã An Lộc, nơi mà phần lớn đồng bào tập trung để tránh đạn pháo và cũng là nơi binh lính địch bị thương đang được cứu chữa, khiến nhiều người bị tử nạn. Để giải quyết số thương vong, địch đã sử dụng xe thùng, xe ủi thu gom và ủi hàng ngàn tử thi xuống hố chôn, tạo nên một ngôi mộ tập thể trên 3.000 người và dựng nên tấm bia “Tổ quốc ghi công” để lừa bịp nhân dân. Ngày nay, di tích Mộ 3.000 đồng bào An Lộc bị đế quốc Mỹ tàn sát ngày 03/10/1972 đã được đầu tư tu bổ gồm các công trình: Đài tưởng niệm, Nhà bia tưởng niệm, Nhà đón tiếp…Di tích là nơi để tưởng niệm những hy sinh, mất mát của Quân chủ lực Miền và quân dân Bình Long trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, là nơi để nhân dân và du khách đến tưởng niệm, tìm hiểu về truyền thống lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng, vẻ vang của quân dân thị xã Bình Long. Ngày 01/4/1985, di tích Mộ 3000 đồng bào An Lộc bị đế quốc Mỹ tàn sát ngày 03/10/1972 được Bộ trưởng Bộ Văn hóa quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước

Bình Phước 1727 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam

Di tích Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tọa lạc tại xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Nơi đây tiền thân là Sở Chỉ huy tiền phương của chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972. Ngày 07/4/1972, Lộc Ninh được giải phóng, sau đó trở thành thủ phủ của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Để phù hợp với tình hình mới có lợi cho cách mạng miền Nam, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền quyết định dời căn cứ Quân ủy Miền từ Sóc Con Trăng (Tây Ninh) về đóng tại sóc Tà Thiết. Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được xây dựng từ năm 1973 tại khu rừng thuộc sóc Tà Thiết nên còn được gọi là “Rừng Chính phủ” hay Căn cứ Tà Thiết. Tại đây, dưới những tán cây lớn và rừng le đan chằng chịt là nơi các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước đã từng sống, chiến đấu và trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam gồm các đồng chí: Tư lệnh Trần Văn Trà, Phó Tư lệnh Nguyễn Thị Định, Chính ủy Phạm Hùng, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Lê Đức Anh… Riêng nhà ở và làm việc của Thượng Tướng Trần Văn Trà được dựng theo kiến trúc nhà sàn, tại một trảng đất trống trong khu vực sóc của đồng bào dân tộc Khmer. Ngoài ra, tại Căn cứ còn có hệ thống các công trình phục vụ khác như bếp Hoàng Cầm, hầm giao ban, hội trường… Tất cả đều được xây dựng theo lối nhà bán âm (nửa chìm nửa nổi) để hạn chế ánh sáng đèn phát ra ngoài vào ban đêm, vừa bảo đảm an toàn nếu bị địch ném bom. Vật liệu sử dụng chủ yếu bằng cây rừng, mái lợp lá trung quân, mỗi công trình đều có hệ thống giao thông hào thoát hiểm và các hầm trú ẩn. Các hầm chỉ huy, hầm thông tin, hầm quân y… được xây dựng khá rộng, để thuận tiện làm việc cũng như đề phòng khi trên mặt đất không an toàn. Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại Tà Thiết đã làm tròn nhiệm vụ bảo vệ và phát triển các hoạt động của Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền trong giai đoạn cuối của kháng chiến chống Mỹ. Tại đây đã diễn ra các sự kiện quan trọng: Nơi đón tiếp các phái đoàn cao cấp của Bộ Chính trị, Bộ Tổng tham mưu, Trung ương Cục để bàn kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang, là nơi triển khai các phương án tác chiến, các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương. Đặc biệt, năm 1975, tại đây, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh được thành lập, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi vẻ vang của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1994 – 1995, di tích Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đã được phục hồi, tôn tạo và đưa vào phát huy giá trị. Đến năm 2018, Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bình Phước thực hiện dự án tu bổ, tôn tạo, bổ sung các hạng mục như: Nhà tưởng niệm, Nhà đón tiếp, Nhà truyền thống, Đài tưởng niệm, Cổng vào khu di tích, Hồ cảnh quan… Di tích Căn cứ Tà Thiết là nơi ghi dấu quá trình hoạt động của Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Ngày nay, di tích vừa là địa chỉ đỏ có ý nghĩa tri ân, giáo dục truyền thống cách mạng, vừa là điểm đến du lịch lý tưởng của du khách.Với những ý nghĩa lịch sử to lớn, ngày 16/11/1988, Bộ trưởng Bộ Văn hóa quyết định xếp hạng di tích Căn cứ Bộ Chỉ huy Quân giải phóng miền Nam Việt Nam là di tích lịch sử quốc gia. Đến ngày 23/12/2015, di tích được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước

Bình Phước 2271 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Bồn xăng kho nhiên liệu VK98

Di tích Bồn xăng – Kho nhiên liệu VK98 tọa lạc tại xã Lộc Quang, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Di tích thuộc hệ thống di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh. Tổng kho nhiên liệu VK98 được xây dựng năm 1974, tọa lạc quanh ngọn đồi 117 (tên một điểm cao trong bản đồ quân sự) thuộc xã Lộc Quang, huyện Lộc Ninh, với diện tích 10ha, gồm 7 bồn, mỗi bồn có sức chứa 250.000 lít, Tổng kho nhiên liệu VK98 có trữ lượng 1.750.000 lít. Các bồn chứa xăng dầu được hàn bằng thép, mỗi bồn có đường kính 10m, cao 3,5m và cách nhau 100m theo hình tam giác, được chôn dưới lòng đất, bao bọc bởi các loại cây rừng có bố trí bãi chông dày đặc. Các bồn chứa được nối với nhau bằng đường ống dẫn, có độ cao so với mặt đường nên xe đến lấy xăng không phải dùng máy hút mà chỉ cần mở van để nguyên liệu tự chảy vào bồn. Một đại đội gồm 30 chiếc xe bồn (xe xitéc), ngày đêm vận chuyển xăng, dầu từ trạm VK96 Bù Gia Mập về tập kết tại Tổng kho nhiên liệu VK98 và vận chuyển xăng dầu ra chiến trường. Sau ngày giải phóng đất nước, các bồn chứa xăng dầu được Hậu cần Quân khu 7 tháo dỡ, còn lại một bồn phục vụ nhu cầu tham quan, tìm hiểu của nhân dân. Cùng với các điểm tập kết xăng dầu khác, di tích Bồn xăng – Kho nhiên liệu VK98 đã ghi dấu một thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cung cấp xăng dầu, góp phần vào thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày nay, di tích trở thành một trong những địa điểm để tìm hiểu, nghiên cứu về hệ thống đường ống xăng dầu nói riêng, con đường Trường Sơn huyền thoại nói chung trong kháng chiến chống Mỹ. Với những giá trị lịch sử tiêu biểu, Bộ trưởng Bộ Văn hóa quyết định xếp hạng di tích Bồn xăng – Kho nhiên liệu VK98 là di tích lịch sử quốc gia vào ngày 21/4/1989. Ngày 09/12/2013, di tích Bồn xăng – Kho nhiên liệu VK98 tại xã Lộc Quang, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước là di tích nằm trong hệ thống di tích Đường Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Bảo Tàng Tỉnh Bình Phước

Bình Phước 1927 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Điểm cuối đường ống dẫn xăng dầu VK96

Đường Hồ Chí Minh - cầu nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam, là căn cứ địa vững chắc của chiến trường Nam Đông Dương trong kháng chiến chống Mỹ. Như chúng ta biết, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nguồn nhiên liệu xăng dầu là một yêu cầu cấp thiết để phục vụ cho cuộc chiến tranh quy mô và thần tốc. Bình Phước mảnh đất “miền Đông gian lao mà anh dũng” rất vinh dự và tự hào khi trên địa bàn tỉnh có hai điểm di tích thuộc hệ thống di tích đặc biệt đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là di tích Bồn Xăng – Kho nhiên liệu VK98 và Điểm cuối đường ống dẫn xăng dầu VK96. Trải qua những năm tháng hết sức gian khổ, bất chấp điều kiện địa hình, thời tiết khắc nghiệt và sự đánh phá ngăn chặn quyết liệt của kẻ thù, sau 6 năm (từ năm 1968 đến 1974), bộ đội đường ống Trường Sơn đã xây dựng, bảo vệ vận hành thông suốt tuyến đường ống xăng dầu dài 5.000km và hệ thống kho xăng dầu gần 3 vạn tấn từ biên giới phía Bắc của Tổ quốc xuyên dọc Trường Sơn vào đến Bù Gia Mập. Bù Gia Mập là điểm cuối cùng đường ống dẫn xăng dầu Bắc - Nam. Từ đây, nguồn xăng dầu được chở bằng xe bồn (hoàn toàn bí mật) về các Bồn xăng - Kho nhiên liệu VK98, VK99 ở Lộc Ninh. Di tích Điểm cuối đường ống dẫn xăng dầu VK96 còn có những tên gọi khác như: ký hiệu K22, Ô30. Sau này sử dụng mật danh là VK. Điểm cuối hệ thống tuyến đường ống dẫn xăng dầu này là VK96, tiếp đến các bồn xăng ở Lộc Ninh là VK98 (Lộc Quang), VK99 (Lộc Hòa). Di tích chính là nơi ghi dấu những chiến công to lớn và thầm lặng của bộ đội, bộ đội xăng dầu, thanh niên xung kích, quân dân địa phương... trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, là minh chứng cho một trong những huyền thoại của con đường Trường Sơn lịch sử, đó là hệ thống đường ống dẫn xăng dầu Trường Sơn, là một trong những kỳ tích của Đoàn 559. Đây là một trong 3 hệ thống chủ lực của đường mòn chiến lược Hồ Chí Minh, thể hiện cho tinh thần quật cường, ý chí sắt đá của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là thắng lợi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Trong đó, hệ thống tuyến đường ống dẫn xăng dầu - đường Trường Sơn là hiện thân của ý chí sắt đá, thể hiện ý chí quyết thắng, lòng dũng cảm, khát vọng độc lập, quyết tâm giải phóng miền Nam, thu non sông về một mối của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết chiến đấu thủy chung giữa ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia. Tuyến đường Trường Sơn đã tồn tại trong lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước như một huyền thoại với cái tên “Đường mòn Hồ Chí Minh”. Hệ thống tuyến đường ống dẫn xăng dầu - đường Trường Sơn, con đường nối liền Nam - Bắc gắn với bao chiến công hào hùng của toàn dân tộc trong những năm tháng kháng chiến mãi mãi là niềm tự hào to lớn, cổ vũ, động viên toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ta ngày nay. Với ý nghĩa lịch sử to lớn đó, di tích Bồn Xăng - Kho nhiên liệu VK98 huyện Lộc Ninh và di tích Điểm cuối đường ống dẫn xăng dầu VK96 huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước nằm trong hệ thống di tích đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận di tích quốc gia đặc biệt ngày 09/12/2013. Nguồn: Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Bình Phước

Bình Phước 1781 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích lịch sử khu vực Đồn Biên phòng Bu Prăng

Ngày 4/1/2023, Di tích lịch sử khu vực Đồn Biên phòng Bu P'răng nằm ở bon Đắk Huýt và bon Bu P'răng 2, xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông được công nhận là Di tích lịch sử cấp tỉnh. Đài tưởng niệm liệt sĩ – nơi ghi danh và tri ân 16 cán bộ, chiến sĩ của đơn vị đã anh dũng hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam năm 1977. Để phục vụ nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, ngày 20/5/1975, Đồn Công an nhân dân vũ trang Bu P’răng (tiền thân của Đồn biên phòng Cửa khẩu Bu P’răng) được thành lập, với quân số ban đầu là 32 cán bộ, chiến sĩ công an vũ trang được chi viện từ tỉnh Sơn La vào. Lúc bấy giờ, đồn được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia với đoạn biên giới dài 16,5 km, thuộc xã Quảng Trực (huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Lắk cũ) nay là huyện Tuy Đức (Đắk Nông), giáp với tỉnh Mondulkiri, Vương quốc Campuchia. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, cán bộ, chiến sĩ đã kiên cường bám trụ, dũng cảm chiến đấu 127 trận, bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Mốc son lịch sử thể hiện tinh thần quả cảm của các chiến sĩ lúc bấy giờ là trận đánh kéo dài 47 ngày đêm (từ ngày 29/3 đến 16/5/1978) với bọn Pôl Pốt. Cuộc chiến đấu thắng lợi, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới nói trên thể hiện sự đoàn kết, ý chí quyết tâm chiến đấu và sẵn sàng hy sinh của cán bộ, chiến sĩ Đồn Công an nhân dân vũ trang Bu P’răng. Với chiến công đó, ngày 6/11/1978, Đồn Công an nhân dân vũ trang Bu P’răng đã vinh dự được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân. Đồn biên phòng cửa khẩu Bu P’răng đóng quân trên địa bàn huyện Tuy Đức, cách trung tâm huyện 35 km, được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chính diện 11 km đường biên giới, phụ trách bon Bu P’răng 2 thuộc xã Quảng Trực (Tuy Đức). Với tinh thần “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”, cấp ủy, chỉ huy đơn vị đã quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, mệnh lệnh và kế hoạch của cấp trên về nhiệm vụ, công tác biên phòng. Theo đó, cùng với xây dựng đầy đủ các văn kiện tác chiến, đồn thường xuyên tổ chức luyện tập các phương án, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu cao, chủ động phát hiện và xử lý kịp thời mọi tình huống nảy sinh trên biên giới, địa bàn, trạm cửa khẩu. Chỉ tính trong 2 năm 2020-2021, đồn đã tổ chức 676 đợt tuần tra, kiểm soát, bảo vệ biên giới với 6.084 lượt cán bộ, chiến sĩ, qua đó phát hiện và xử lý 10 vụ/11 đối tượng vi phạm biên giới. Là đồn cửa khẩu, đơn vị duy trì hoạt động kiểm soát xuất nhập cảnh, xuất nhập khẩu qua cửa khẩu chặt chẽ, đúng luật pháp, đồng thời tham mưu cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện tốt công tác đối ngoại nhân dân, duy trì ổn định và phát triển quan hệ hợp tác hai bên biên giới. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Nông Thôn Mới - Tỉnh Đăk Nông

Đắk Nông 1920 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Cầu Sêrêpôk

Cầu Sêrêpôk do người Pháp xây dựng vào năm 1941, hoàn thiện, đưa vào sử dụng năm 1957 và được chính quyền Pháp đặt tên là cầu 14 (cầu nằm trên tuyến đường 14), còn người dân địa phương đặt tên là cầu Sêrêpôk vì bắc qua sông Sêrêpôk nối liền hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông. Đầu cầu phía đông thuộc xã Hòa Phú, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; còn đầu cầu phía đông thuộc xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Năm 1904, thực dân Pháp bắt tay xây dựng bộ máy cai trị, thành lập đơn vị hành chính tỉnh Đắk Lắk và chia cao nguyên Đắk Lắk thành năm quận. Trong quá trình xâm lược, thực dân Pháp đã nhận thấy sự khó khăn trong việc di chuyển trên con đường huyết mạch, làm ảnh hưởng đến ý đồ xâm chiếm mở rộng lãnh thổ. Năm 1941, chính quyền thực dân Pháp quyết định xây dựng cầu 14 và cây cầu được xây dựng bằng xương máu của các tù nhân chính trị ở nhà đày Buôn Ma Thuột, người dân địa phương. Cầu được thiết kế với kết cấu giàn bê tông cốt thép liên tục chạy dưới, dài 169,5 m, có 4 nhịp, rộng 5 m, hai làn đường cho người đi bộ 1,37 m, làn đường xe chạy là 2,8 m, tải trọng 5 tấn. Vào những năm đầu thập niên 40 của thế kỷ 20 thì cầu Sêrêpôk thuộc loại hiện đại và có kiến trúc đẹp. Bước sang giai đoạn 1954-1975, tuyến đường 14 được đế quốc Mỹ và ngụy quyền khai thác triệt để, bố trí lực lượng chốt chặn nhằm kiểm soát, ngăn chặn mọi nguồn lực của bộ đội Việt Nam. Cũng chính tại nơi đây, quân và dân ta mở mũi tiến công quan trọng tiến về giải phóng Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) rồi hướng về Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1985, trước tình hình phát triển của vận tải đường bộ, cầu Sêrêpôk xây dựng từ thời Pháp không thể tiếp tục đáp ứng được nhu cầu vận chuyển về cả tải trọng và mật độ phương tiện nên Bộ Giao thông vận tải quyết định đầu tư xây dựng cây cầu mới thay thế cho cầu cũ tải trọng nhỏ và đã xuống cấp. Cầu Sêrêpôk mới được xây dựng trên Quốc lộ 14, cách cầu cũ 30 m về phía bắc. Cầu dài 176 m, có kết cấu bê tông cốt thép dầm giản đơn, gồm 5 nhịp, chiều rộng 11 m, có 2 làn xe cơ giới rộng 7 m và 2 làn đi bộ rộng mỗi làn 1,25 m. Công trình do Khu Đường bộ 5 làm chủ đầu tư và Công ty Công trình Giao thông 510 của Tổng công ty Công trình Giao thông 5 thuộc Bộ Giao thông vận tải thi công. Cầu được hoàn thành và đưa vào sử dụng từ tháng 10 năm 1992. Từ đó, các phương tiện lưu thông trên quốc lộ 14 đều qua cây cầu mới. Vào năm 2016, một cây cầu thứ ba nằm giữa hai cầu cũng đã được hoàn thành phục vụ nhu cầu đi lại ngày càng tăng trên Quốc lộ 14. Với ý nghĩa đó, cầu Sêrêpốk được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Đắk Nông chọn làm điểm di sản của Công Viên Địa Chất Đắk Nông thuộc tuyến du lịch “Bản giao hưởng của làn gió mới”. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử

Đắk Nông 1980 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Địa điểm chiến thắng Đồi 722 – Đắk Sắk

Đồi 722 – Đắk Sắk là căn cứ biệt kích của Mỹ - Ngụy thiết lập năm 1965. Đây là nơi diễn ra trận chiến ác liệt của bộ đội chủ lực cùng lực lượng quân sự địa phương tiến công tiêu diệt căn cứ biệt kích vào ngày 22 và 23/8/1968. Đồi 722 ở độ cao 722m so với mặt biển trên địa bàn thôn Thổ Hoàng 4, xã Đắk Sắk, huyện Đắk Mil,. Tháng 5/1965, Mỹ - Ngụy và chính quyền Sài Gòn cho xây dựng căn cứ quân sự Đồi 722 (còn gọi là trại lực lượng đặc biệt Đức Lập) cách trung tâm quận Đức Lập khoảng 10 km về hướng Đông nhằm tăng cường lực lượng và gia tăng các hoạt động quân sự. Để đối phó với âm mưu, thủ đoạn của địch, năm 1968 Bộ Chính trị, Bộ Tư lệnh chiến trường Tây Nguyên xác định cần phải tiêu diệt địch tại chi khu quận lỵ Đức Lập mà nòng cốt là cứ điểm quân sự Đồi 722 - Đắk Sắk, một trong số sào huyệt trọng yếu của địch trên mặt trận Tây Nguyên. Thực hiện chủ trương đó, trong suốt những năm 1968 đến 1975 bộ đội chủ lực ta phối hợp với quân dân địa phương tổ chức nhiều trận đánh vào cứ điểm này, một mặt làm tiêu hao lực lượng sinh lực địch, mặt khác nhằm đánh phá hệ thống đồn bốt đang án ngự phá hoại đường Hồ Chí Minh trên chiến trường Nam Tây Nguyên. Sau năm 1968, qua nhiều thất bại nặng nề ở chiến trường Nam Tây Nguyên, địch lui về cố thủ trong các cứ điểm quân sự, trong đó địa bàn Đồi 722 - Đắk Sắk là cứ điểm quân sự trọng yếu. Từ đây, chúng tiếp tục thực hiện chính sách dồn dân lập ấp. Trước tình hình đó, để giữ vững thế trận, Tỉnh ủy Quảng Đức chỉ đạo Huyện ủy Đắk Mil, quyết tâm vượt qua khó khăn, thực hiện “ba bám” (cán bộ bám dân, dân bám đất và du kích bám địch) tiếp tục đấu tranh với địch, đẩy mạnh xây dựng hậu cứ, tăng gia sản suất, bảo đảm cung cấp lương thực cho mặt trận; mở rộng vùng giải phóng, đẩy địch vào thế co cụm, cùng với Nhân dân cả nước sẵn sàng chiến đấu. Đến năm 1975, cứ điểm Đắk Sắk, Đức Lập bị quân ta xóa sổ hoàn toàn. Sau ngày giải phóng, để tưởng nhớ sự hy sinh to lớn của cán bộ, chiến sĩ ta tại Đồi 722 - Đắk Sắk nói riêng, trong chiến dịch Đức Lập mùa thu 1968 nói chung, tỉnh Đắk Nông đã lập Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Ngày 24/10/2012, di tích Đồi 722 - Đắk Sắk được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, Di tích lịch sử Đồi 722 - Đắk Sắk có tổng diện tích gần 4 ha, trên di tích này vẫn còn lại một số di vật, quân trang quân dụng, như giày, mũ, vỏ đạn. Năm 2010, khu vực I của di tích đã được Nhà nước đầu tư xây dựng nhà bia tưởng niệm, khuôn viên cây xanh và tường rào với tổng diện tích đầu tư xây dựng 2.485m2. Hàng năm, di tích phục vụ khoảng trên 1.000 lượt khách đến viếng thăm, học tập. Đây là di tích lịch sử có ý nghĩa trọng đại trong giáo dục truyền thống, ý thức chính trị cho thế hệ trẻ, tri ân công lao to lớn của các bậc cha anh. Là một trong những mốc son lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Đảng bộ, Nhân dân tỉnh Đắk Nông nói riêng và Việt Nam nói chung. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử

Đắk Nông 2116 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử địa điểm lưu niệm N’Trang Gưh

Căn cứ vào sử liệu địa phương và lời kể của một số già làng ở Krông Nô thì N’Trang Gưh, tên thật là Y Gưh, là người dân tộc Ê đê, sinh khoảng năm 1845, tại buôn Choáh Kplang, nay thuộc xã Buôn Choáh (Krông Nô). Tương truyền, N’Trang Gưh là người tài cao, đức rộng và là một thành viên săn bắn giỏi của buôn nên có nhiều của cải quý giá như sừng tê giác, ngà voi. Không những thế, ông còn biết tính toán làm ăn giỏi nên mỗi khi đến mùa luôn thu được nhiều lúa, ngô, nuôi được nhiều trâu, bò, heo, gà... có uy tín trong buôn gần, làng xa, được mọi người yêu quý. Ngoài giàu có về của cải, ông còn là người giàu lòng thương người vì luôn hướng dẫn bà con những kinh nghiệm săn bắt, chăn nuôi, trồng trọt và sẵn sàng giúp đỡ người nghèo khó, hoạn nạn, mất mùa. Năm 1884, quân Xiêm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược, đánh chiếm vùng hạ lưu sông Krông Nô và Krông Ana. Hưởng ứng lời kêu gọi của N’Trang Gưh, người dân ở 20 buôn người Bih sống trên lưu vực sông Krông Nô và Krông Ana đã đứng lên chống ngoại xâm. Nghĩa quân do N’Trang Gưh chỉ huy có đến 600 người, không có súng, chỉ dùng các loại vũ khí thô sơ: cung tên, giáo mác… Nhằm tăng thêm sức mạnh, N’Trang Gưh đã tạo ra một loại nỏ khá đặc biệt, chưa ở đâu có. Nỏ có chiều dài quá đầu người, thành nỏ rộng một gang tay, mỗi lần bắn ra 3 mũi tên. Với thứ vũ khí lợi hại này, cộng với tinh thần dũng cảm, kiên cường và mưu trí, năm 1887, nghĩa quân N’Trang Gưh đã bao vây tiêu diệt toàn bộ quân Xiêm ngay trên cánh đồng buôn Tur và buôn Phok. Chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân N’Trang Gưh đã đập tan cuộc xâm lược của quân Xiêm, giúp đồng bào yên tâm lao động sản xuất, xây dựng buôn làng. Những năm đầu thế kỷ 20, bộ máy cai trị của chính quyền thực dân Pháp đã thâu tóm và kiểm soát gần như toàn bộ số buôn, bon của đồng bào bản địa trên vùng đất Tây Nguyên. Buốc Gioa (Bourgeois), công sứ Pháp đầu tiên tại Đắk Lắk đã ngang nhiên dùng vũ lực quân sự xua đuổi người Ê đê, M’nông đi nơi khác, chiếm lấy buôn, bon, đất đai, nương rẫy, bến nước để thiết lập các đồn điền và xây dựng hệ thống đồn bốt. Đồng bào bị bắt vào làm phu trong các đồn điền của Pháp, mỗi ngày họ phải lao động từ 14 đến 15 giờ. Đầu năm 1900, quân Pháp đánh chiếm các buôn của người Bih dọc lưu vực sông Krông Nô và Krông Ana. N’Trang Gưh đã lãnh đạo nghĩa quân chiến đấu chống lại quân xâm lược, nổi tiếng nhất là trận tiêu diệt đồn buôn Tur. Vào một buổi sáng năm 1901, dưới sự chỉ đạo của N’Trang Gưh, nghĩa quân đã vượt sông Krông Nô bao vây đồn Tur, dùng ná bắn được nhiều tên giặc rồi tấn công vào đồn. Chỉ một thời gian ngắn, toàn bộ quân địch đồn trú tại đây bị tiêu diệt, tên thực dân Buốc Gioa, kẻ có nhiều nợ máu với nhân dân chết gục trước sân đồn. Thừa thắng, nghĩa quân tiếp tục tiến công, lần lượt tiêu diệt các đồn khác của thực dân như đồn buôn Jiăng, đồn buôn Dur... Với sự lãnh đạo tài tình và dũng cảm của N’Trang Gưh, nghĩa quân đã chiến đấu trong suốt 13 năm. Năm 1914, do trong hàng ngũ nghĩa quân có người phản bội, địa điểm đóng quân của N’Trang Gưh bị tiết lộ, nên ông bị Pháp bắt, kết án tử hình. Sau khi N’Trang Gưh mất, thi thể của ông được nhân dân đưa về chôn cất tại quê hương, nơi ông sinh ra là buôn Choáh xã buôn Choah (Krông Nô). Để ghi nhớ địa điểm từng để lại nhiều dấu ấn lẫy lừng của người tù trưởng buôn làng Ê Đê, người anh hùng của các dân tộc Tây Nguyên, ngày 2-8-2011, Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch đã xếp hạng địa điểm lưu niệm N’Trang Gưh là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Krông Nô

Đắk Nông 2155 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử địa điểm bắt liên lạc Tây Nguyên đến Đông Nam Bộ

Di tích lịch sử thôn Cây Xoài là Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường hành lang chiến lược Bắc-Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông. Ngày 25/5/1959, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chính thức thành lập Đoàn B90, có nhiệm vụ bí mật vào Nam cùng với đơn vị tại chỗ xây dựng cơ sở, xoi mở hai tuyến đường phía Đông và phía Tây từ Nam Tây Nguyên vào miền Đông Nam Bộ - nơi có Xứ ủy Nam Bộ. Vượt qua những khó khăn, hi sinh và cả những chuyến móc nối không thành công, cuối cùng, vào khoảng 16 giờ, ngày 30/10/1960, Đoàn công tác B90 đã bắt liên lạc với đoàn công tác C200 của miền Đông Nam Bộ tại thôn Cây Xoài, xã Đắk Nia, TP. Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Đến ngày 4/11/1960, tại ki-lô-mét 4 trên đường Đắk Song đi Gia Nghĩa, cánh phía Tây của Đoàn B90 tiếp tục bắt liên lạc với đơn vị C270 từ Đông Nam Bộ lên. Đây là sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt chiến lược, đường hành lang chiến lược Bắc - Nam được khai thông đã trở thành một điểm nút quan trọng giúp thông suốt tuyến đường Hồ Chí Minh, từ đây, tuyến vận tải quân sự chiến lược Đường Hồ Chí Minh như huyết mạch thông suốt từ Bắc chí Nam chi viện kịp thời sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa cho tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần quyết định vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Từ năm 1961 đến năm 1965, tuyến Đường Hồ Chí Minh thông suốt, hàng vạn con em đồng bào Nam Bộ tập kết ra Bắc đã trở lại chiến trường; hàng loạt nhu yếu phẩm như bưu phẩm, công văn tài liệu, vũ khí, khí tài, kể cả thiết bị đài phát thanh giải phóng... đã được các chiến sĩ giao liên tuyến cánh Đông và cánh Tây đưa đón vận chuyển khẩn trương chi viện cho chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ; đưa đón cán bộ cấp cao của Đảng vào Nam lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống Mỹ. Qua một thời gian hoạt động, cơ sở ở Nam Tây Nguyên được mở rộng và nối liền các vùng có cơ sở ở Tây Khánh Hòa, Tây Ninh Thuận, Đắk Lắk, Lâm Đồng và nối liền từ Đăk Mil đến chiến khu Đ. Bên cạnh đó, lực lượng hành lang Quảng Đức phối hợp với Campuchia mở rộng vùng kiểm soát dọc tuyến hành lang, tạo sự liên hoàn, phối hợp có hiệu quả các chiến trường trong kháng chiến. Để đạt được kỳ tích nối thông giữa các chiến trường, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, không thể không nhắc đến vai trò của đồng bào các dân tộc trên địa bàn đã không quản hi sinh, gian khổ bảo vệ hành lang, che chở cho các lực lượng tham gia vận tải quân sự trên đường Trường Sơn, che dấu cán bộ, bảo vệ cách mạng, đảm bảo hoạt động thông suốt. Đó là những chàng trai, cô gái Đoàn H50 bám đường, bất chấp gian khổ, thiếu thốn; Là các đoàn dân công của địa phương bí mật gùi, thồ hàng hóa, vũ khí vượt qua những đèo cao, dốc đứng, cánh đồng lầy lội và đồn bốt nguy hiểm; Đó là hình ảnh 800 đồng bào ở căn cứ Nâm Nung phải ăn lá rừng, củ rừng để dành lúa, ngô, khoai, sắn giúp đỡ đội xoi đường và cán bộ, bộ đội đi trên hành lang, bất chấp sự nguy hiểm để nuôi quân, che chở các chiến sĩ cách mạng... Di tích lịch sử thôn Cây Xoài “Địa điểm bắt liên lạc khai thông đường hành lang chiến lược Bắc - Nam, đoạn qua tỉnh Đắk Nông” là một trong những địa danh lịch sử gắn liền với kỳ tích của thế kỷ 20 - Đường Trường Sơn, được Nhà nước đầu tư xây dựng và hoàn thành vào ngày 23/3/2010. Ngày 02/8/2011, Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch công nhận đây là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia. Ngày 30/10/2017, Ủy ban Nhân dân tỉnh Đắk Nông đã tổ chức Lễ tưởng niệm và đặt Bia ghi danh sách các cán bộ, chiến sĩ đã tham gia chiến đấu, hy sinh trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Đường hành lang chiến lược Bắc-Nam, tại thôn Cây Xoài, xã Đắk Nia, TP. Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông. Nguồn: Đảng Ủy Khối Các Cơ Quan Và Doanh Nghiệp Tỉnh Đắk Nông

Đắk Nông 3144 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của N’Trang Lơng

Các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào Mnông do người anh hùng N'Trang Lơng lãnh đạo là nơi ghi dấu chiến công hiển hách, oanh liệt chống ngoại xâm, thể hiện ý chí đấu tranh kiên cường, tinh thần bất khuất, đoàn kết, nghĩa tình của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Chiến tranh đi qua, nơi đây còn dấu tích hầm, hào, lũy, công sự... mang giá trị lịch sử - văn hóa trong việc giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước cho các thế hệ. Hiện nay, để ghi nhớ công ơn, chiến công đấu tranh chống giặc xâm lược, các cấp thẩm quyền đã xếp hạng, đầu tư, tu bổ, phục dựng lại một số địa điểm của phong trào đấu tranh do N'Trang Lơng tại huyện Tuy Đức và xây dựng tượng đài tại Thành phố Gia Nghĩa cụ thể như: 1. Dấu tích đồn Bu Méra có tổng diện tích 1 ha (100m - 100m), đồn trước đây được bố trí khá khoa học, gồm một cửa chính ở phía Tây - Bắc, rộng 2,5m và 2 cửa phụ (cửa thoát hiểm) phía Tây - Nam và Đông - Bắc thông theo đường hào chạy dọc xuống phụ lưu Đắk Buk So. Với diện tích tổng thể chỉ có 1 ha, nhưng đồn Bu Méra lại chứa đựng một tiểu quần thể sinh thái mang âm hưởng của núi rừng Tây Nguyên; có nhiều loại gỗ lớn, tuổi từ 70 đến 90 năm (là gỗ tái sinh, hầu như vẫn còn nguyên vẹn), cùng với nhiều loài chim, sóc, bò sát,… Hiện nay, di tích đã được phục dựng, tôn tạo với các hạng mục như hào, lũy, cổng,… để phục vụ khách tham quan du lịch. 2. Dấu tích bon Bu Nor với diện tích khoảng 7 ha, hiện nay nằm trong rừng phòng hộ của Lâm trường Quảng Tân với nhiều loại gỗ kích thước khá lớn, còn nguyên sinh. 3. Dấu tích "Bia Henri Maitre" được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Đăk Nông công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh, ngày 24 tháng 12 năm 2008 của UBND tỉnh Đăk Nông. Hiện nay, phần mộ của Henri Maitre vẫn nguyên vẹn. Mộ có diện tích khoảng 3m2, nơi cao nhất là 40cm (so với mặt đất), dấu tích phản ánh tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân các dân tộc Tây Nguyên; phản ánh ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất của đồng bào các dân tộc Đăk Nông dưới sự lãnh đạo mưu lược dũng mãnh của vị anh hùng dân tộc N'Trang Lơng. 4. Tượng đài Anh hùng N'Trang Lơng và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc 1912 - 1935 tại đồi Đắk Nu, phường Nghĩa Đức, Thành phố Gia Nghĩa. Ngày 27/08/2007, Di tích lịch sử các địa điểm về phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp của đồng bào M’nông do N’Trang Lơng lãnh đạo, được công nhận là di tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia theo quyết định của Bộ Văn hóa - Thể thao & Du lịch. Nguồn: Sở Văn Hoá Thể Thao Và Du Lịch Đắk Nông

Đắk Nông 2134 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích lịch sử cách mạng Căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV

Khu di tích căn cứ kháng chiến B4 – Liên tỉnh IV thuộc thôn Tân Tiến, xã Nâm Nung (Krông Nô) hiện đang được đầu tư xây dựng, trùng tu gần hoàn thành. Không những là “địa chỉ đỏ” để lưu giữ, giáo dục truyền thống cách mạng mà khu di tích sẽ hứa hẹn trở thành một trong những điểm du lịch lịch sử-sinh thái hấp dẫn. Di tích lịch sử căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV nằm giữa một vùng đồi núi chập chùng như ôm ấp và che chở các dấu tích của một thời lịch sử oai hùng. Nơi đây, tháng 12/1960, Tỉnh ủy Quảng Đức được thành lập trực thuộc Liên Khu ủy 5, dựa vào vùng căn cứ kháng chiến tại Nâm Nung gồm các buôn R’cập, Ja Ráh, Dốc Ju, Broah, Choaih, Fi Bri để lãnh đạo cách mạng. Khu căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV trong kháng chiến giữ vai trò vừa là tiền tuyến vừa là hậu phương, là nơi xây dựng lực lượng cách mạng và tham gia sản xuất, cung cấp lương thực, thực phẩm cho tiền tuyến, cho các vùng khác để cứu đói. Đồng thời, cũng là nơi tổ chức các trận đánh lớn ngay trên địa bàn căn cứ, làm tiêu hao sinh lực địch, khai thông đường hành lang chiến lược, phục vụ đắc lực cho chiến trường miền Nam. Với những chiến tích lịch sử oai hùng đó, ngày 17/3/2005, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận Di tích lịch sử căn cứ kháng chiến B4 - Liên tỉnh IV là di tích cấp Quốc gia. Để địa danh xứng tầm với vai trò, vị trí về lịch sử cách mạng, những năm qua, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh đã tổ chức khảo sát, khoanh vùng di tích. Trên cơ sở đó, tỉnh cũng đã quyết định đầu tư hơn 28 tỷ đồng để xây dựng, trùng tu các hạng mục: khu công sự, khu văn phòng liên tỉnh IV, phòng làm việc Ban cán sự B4, hội trường, trạm quân y, cầu qua khu căn cứ, đường nội bộ khu căn cứ, khu khánh tiết (nhà lưu niệm, bia tưởng niệm, tượng đài) và trồng cây xanh, tạo cảnh quan môi trường ở khu căn cứ cách mạng Nâm Nung. Để phát huy giá trị lịch sử cách mạng, công tác tuyên truyền, giáo dục trong quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về giá trị to lớn của khu di tích đã được triển khai sâu rộng, từ đó, có ý thức bảo vệ, hiểu được tiềm năng du lịch văn hóa, lịch sử của quê hương. Nguồn: Báo Đắk Nông điện tử

Đắk Nông 2138 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà ngục Đăk Mil

Nằm dọc theo quốc lộ 14, cách trung tâm thị xã Gia Nghĩa khoảng 60 km, ngục Đắk Mil, nằm trong địa phận huyện Đắk Mil, là di tích lịch sử oai hùng còn mang đậm dấu ấn của thời gian. Nhà ngục Đăk Mil, được công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia ngày 17 tháng 3 năm 2005. Năm 1940, phong trào Cách mạng nổ ra khắp nơi trong cả nước, do số lượng tù chính trị tại Nhà đày Buôn Ma Thuột ngày càng đông và để phục vụ thi công tuyến đường xuyên qua cao nguyên M’Nông bên cạnh nhà tù Buôn Ma Thuột thực dân Pháp còn cho xây dựng Nhà ngục Đăk Mil, (nay thuộc huyện Đăk Mil, Đắk Nông) giữa một khu rừng già, nơi rừng thiêng nước độc dùng để giam tù chính trị. Nhà ngục Đăk Mil, trở thành một cơ sở cách mạng trên địa bàn huyện và đã chứng kiến nhiều lần vượt ngục của những người chiến sĩ Cộng sản Việt Nam Từ năm 1940 đến 1943, nơi đây đã giam giữ hàng trăm lượt chiến sĩ cộng sản, có thời điểm lên đến 120 người. Các chiến sĩ cách mạng bị đày ở Nhà ngục Đăk Mil, từ năm 1941 đến năm 1943: Chu Huệ, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Tạo, Trần Hữu Doánh, Trương Vân Lĩnh, Nguyễn Khải, Trần Tống, Lê Nam Thắng …. Cuối năm 1943 người Pháp chuyển toàn bộ số tù ở đây về nhà ngục Buôn Ma Thuột và cho phá hủy ngục Đăk Mil,. Nhà ngục Đăk Mil, thời xưa được dựng trên một khoảng đất giữa rừng núi u ám của huyện Đăk Mil,. Bên ngoài dãy Nhà ngục 9 gian thưng bằng gỗ, mái lợp tranh là hàng rào gỗ được chèn chặt bằng giây thép gai. Bên trong Nhà ngục lối đi được đặt ở giữa 2 dãy sàn gỗ có đủ cùm chân, xiềng tay, mỗi một chiếc cùm có treo 4 ống tre: 2 ống trên đựng nước uống, 2 ống dưới đựng nước tiểu và phân. Trải qua một thời gian dài, Nhà ngục Đăk Mil, đã bị đổ nát và trở thành phế tích. Hiện nay, vào ngày 31/12/2010, sau hơn hai năm tiến hành trùng tu, tỉnh Đắk Nông đã hoàn thành việc khôi phục, xây dựng Di tích lịch sử quốc gia Nhà ngục Đăk Mil, tại thôn 9A, xã Đắk Lao (Đắk Mil). Công trình do Bộ Văn Hoá Thể Thao và Du Lịch đầu tư với tổng kinh phí trên 9 tỷ đồng. Toàn bộ di tích nằm giữa khu dân cư đông đúc với diện tích khoảng gần 1 ha, với 2 hạng mục chính là nhà ngục và nhà trưng bày các hiện vật. Nhà ngục đã được tái hiện với diện tích tương tự nhà ngục trước đây thực dân Pháp đã dựng nên, hiện vẫn còn nền móng cũ. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Huyện Đắk Mil,.

Đắk Nông 2424 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Cổ Thạch

Chùa Cổ Thạch (còn gọi chùa Đá Cổ, hay chùa Hang) tọa lạc ở xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong (Bình Thuận), trong khu vực bãi biển Cổ Thạch Với kiến trúc độc lạ trong một cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, chùa Cổ Thạch đã được công nhận là một di tích, thắng cảnh cấp Quốc gia của Việt Nam. Từ những năm 1835-1836, thiền sư Bảo Tạng tìm đến Bình Thạnh đã khai lập nên chùa Cổ Thạch và trụ trì nơi đây năm năm. Sau đó, vị thiền sư giao chùa cho các đệ tử trông coi, ông tiếp tục độc hành về phía Nam của Tổ quốc và dừng chân ở miền Đông Nam bộ (Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu). Ban đầu, chùa chỉ là một thảo am nhỏ vách ván, lợp lá, qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo đến thời Thiệu Trị chùa được xây dựng lớn cả về không gian lẫn nghệ thuật và còn giữ hầu như nguyên vẹn đến ngày nay. Cho đến nay, dù đã trải qua 170 năm nhưng ngôi chùa vẫn còn lưu giữ nhiều di sản văn hóa Hán Nôm; liễn; đối; hoành phi và nhiều tài liệu cổ quý giá. Trong số đó, Đại Hồng chung và trống sấm đã có niên đại từ đầu thế kỷ thứ 19. Khu vực chùa Cổ Thạch là một quần thể kiến trúc, am, điện, cốc liên hoàn với nhau trên khu đồi đá rộng hơn 4 ha. Đầu năm 1997, chùa xây dựng thêm nhiều tượng Phật Bà Quan Âm rải rác ven biển, tạo phong cảnh đẹp khi đứng trên chùa nhìn xuống. Đường vào cổng Tam quan gồm 36 bậc thang gắn kết bằng phiến thạch. Dưới chân bậc thang là đôi rồng uốn lượn hai bên. Bên phải chiếc cầu nơi cổng là bức tượng hình hổ ngồi và đối xứng qua là tượng voi nằm với kỹ thuật tạc tạo tinh vi. Chính điện chùa nằm trong quần thể núi đá tự nhiên, có khi nằm lọt thỏm giữa những tảng đá to. Kế đó là các nhà thiền, từ đường, nhà tổ, gác chuông, lầu trống, am cốc thờ tự, với những câu liễn phi, hoành đối khá ấn tượng và bảo quản tốt. Nhiều di sản văn hoá Hán Nôm, liễn, đối, hoành phi và những tài liệu có từ ngày tạo lập chùa. một số cổ vật có giá trị lịch sử văn hoá. Mỗi hang động thờ một vị Phật, hoặc Bồ tát, hoặc một nhà sư đã viên tịch. Ba phiến đá tự nhiên xếp thành hàng ngang trước khu chánh điện tạo dáng con cá kình (theo kinh của Phật gọi là con “ma kiệt”, một loài thủy quái được xem là hóa thân từ Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát để giúp đỡ ngư dân khi gặp nạn ở biển khơi). Ngôi chùa đi theo lối kiến trúc cổ xưa nên được bày phối với nhiều màu sắc sặc sỡ rất bắt mắt. Bởi vị trí địa hình là núi đá cao nên mỗi lối đi của ngôi chùa đều có các bậc thang lên xuống thoai thoải theo sườn dốc. Ngay phía dưới chân chùa là đại dương mênh mông tạo nên một cảnh quan sơn thủy hữu tình. Ngôi chùa Cổ Thạch nằm trên quần thể núi đá nên cũng có rất nhiều hang động đặc biệt. Tận dụng địa thế này, các thiền sư đã dùng chúng làm nơi thờ phụng.Trong mỗi hang động ở chùa Cổ Thạch đều thờ một vị Phật, Bồ tát hoặc một nhà sư đã viên tịch. Ở đây, có một hang động của Tổ sư – người đã khai sơn ra ngôi chùa này, phía ngoài tượng thờ Tổ sư còn có các bài vị có công lao xây dựng chùa. Kế bên đó là hang thờ Phật Mẫu Chuẩn Đề. Trong hang động này có tượng Phật 8 tay và nhiều tượng cổ khác. Còn ở hang Tam Bảo, các thiền sư dùng để thờ phụng 23 pho tượng Phật cổ với nhiều kích thước và niên đại khác nhau. Vào ngày 25/05 âm lịch hàng năm sẽ là ngày giỗ Tổ của chùa Cổ Thạch. Đây là ngày mà để tăng ni, phật tử nơi đây tưởng nhớ công ơn to lớn của vị Thiền Sư Bảo Tạng – người có công lao to lớn trong việc xây dựng chùa ngày ấy. Nguồn: Phật giáo online

Bình Thuận 2127 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tháp Chăm Po Sah Inư

Po Sah Inư là một trong ba nhóm đền tháp Chăm thuộc phong cách kiến trúc nghệ thuật Hòa Lai, có niên đại sớm từ đầu thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 9. Nhóm tháp tọa lạc trên ngọn đồi khi xưa có tên là đồi Bà Nài thuộc địa phận thôn Ngọc Lâm phường Phú Hài (xưa là Phố Hài), thành phố Phan Thiết. Cạnh tháp B trong nhóm tháp có một ngôi chùa cổ là chùa Bửu Sơn được xây dựng từ cuối thế kỷ 19. Phía dưới chân đồi là biển, phía Tây phía dưới đồi có con Sông Cái bao quanh chảy ra biển. Nhóm đền tháp Po Sah Inư có 3 tháp gồm: Tháp Chính (tháp A), tháp thờ thần Lửa (tháp C) và tháp B thờ bò thần Nandin (cuối thế kỷ 19 vẫn còn, sau đó đã mất). Đây là nhóm đền tháp được xây dựng trên đồi cao gần biển duy nhất trong phong cách kiến trúc nghệ thuật Hòa Lai của nền văn hóa Chămpa, trong khi tất cả các tháp khác đều tọa lạc trên đồi cao hoặc khu vực đồng bằng xa biển. Tháp Chính thờ thần chủ Siva, trong lòng tháp vẫn còn bệ thờ Linga - Yoni là biểu tượng của thần, có niên đại cùng thời với tháp cho đến nay. Từ thế kỷ 19 – 20 nhiều người thường gọi là tháp Phố Hài trùng với địa danh ở đây. Khoảng từ thế kỷ 20 về sau người Chăm gọi là tháp Po Sah Inư là tên của công chúa, chị ruột của vua Podam và đều là con của vua Chăm ParaChanh mà sử Việt gọi là La Khải. Sau khi Po Sah Inư mất, Hoàng tộc Chăm đã xây đền thờ để thờ Bà trong khuôn viên tháp Phố Hài. Như vậy có thời kỳ nhóm đền tháp này tồn tại 2 tên là Phố Hài và Po Sah Inư. Tháp Chính là tháp lớn và cao nhất trong nhóm. Tháp cao 16m; có tất cả 3 tầng, hai tầng trên có kiến trúc gần giống tầng dưới nhưng giảm dần kích thước cũng như các chi tiết kiến trúc và nghệ thuật. Cứ như vậy, nhỏ dần và cao vút lên trên cùng với phần mái tháp. Ở lưng chừng mái tháp có 4 lỗ thông hơi về 4 hướng, nhằm thông hơi và hút khí nóng trong lòng tháp ra ngoài, phần nào tạo sự cân bằng giữa bên trong và bên ngoài, sự hòa hợp giữa thần linh và trời đất. Đây chính là điểm nhấn về tâm linh khi các chức sắc thực hiện lễ nghi và họ tin rằng, các vị thần từ cõi trên đi về bằng con đường này. Tháp Chính cũng là nơi được tập trung những giá trị về kiến trúc vật chất và tinh thần cũng như về tâm linh, tín ngưỡng tôn giáo. Tháp B: Tháp cao 12m, có 3 tầng như tháp A nhưng nhỏ hơn. Trong lòng tháp thờ bò thần Nandin mà từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 người dân địa phương vẫn thấy, sau đó không thấy nữa. Trong đợt khai quật khảo cổ những năm 1991 - 1995, đã tìm thấy một số mảnh và bàn chân của bò thần Nandin. Trước tháp có một sân lễ lớn, hiện nay dùng dựng rạp trong lễ Katê. Tháp C: Do chức năng nguyên thủy ban đầu là thờ thần Lửa nên kiến trúc chỉ có 1 tầng bao gồm cả chân đế, thân và đỉnh tháp, tháp có chiều cao 5m; chiều rộng mỗi cạnh gần 4m. Dấu vết sụp đổ cho biết hàng trăm năm trước cho đến những năm 80 của thế kỷ 20, phần đỉnh và mái tháp bị sạt đổ cùng với đế tháp bị mủn mục sâu vào bên trong thân tháp. Sau khi tu bổ tôn tạo xong, chức năng của tháp được sử dụng lại, nhưng chủ yếu là nơi người ta để lễ vật trước khi vào hành lễ ở tháp Chính. Cả 3 ngôi tháp trong nhóm Po Sah Inư đã được tu bổ, tôn tạo lại nhiều lần để có được hình dáng kiến trúc và không gian văn hóa như hiện tại. Từ trước cho đến nửa đầu thế kỷ 20 người Chăm thường thực hiện nhiều lễ nghi ở đây. Từ năm 2005 lễ hội Katê được phục dựng với đầy đủ các quy trình về không gian, thời gian, hình thức, nội dung và giá trị nguyên gốc như xưa. Từ lúc được phục dựng cho đến nay và mãi sau này, hàng năm lễ hội Katê được tổ chức đều đặn để cùng với tháp Po Sah Inư cổ kính làm nên điểm đến thu hút du khách tạo đà cho phát triển du lịch. Nguồn: Ban tuyên giáo tỉnh uỷ tỉnh Bình Thuận

Bình Thuận 2334 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tháp Po Dam

Tháp Pô Đam thuộc làng Lạc Trị, xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, là một trong những cụm tháp cổ nhất của nền kiến trúc Chăm Pa. Tháp Pô Đam (đọc là Pô Tằm) xây để thờ vua Pô Đam, hay còn gọi là Pô Kathit (Bàn La Trà Duyệt) của người Chăm. Cụm tháp Pô Đam có cấu trúc và bố trí rất lạ, phải nói là lạ nhất so với các cụm tháp khác thuộc kiến trúc Chăm Pa. Cụm tháp Pô Đam đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia vào năm 1996. Thay vì dựng trên đỉnh đồi hay trên đất bằng như nhiều cụm tháp khác, thì tháp Pô Đam lại được bố trí bên sườn đồi. Người Chăm gọi đó là Cơ Gađa, còn người Việt trong vùng gọi là đồi Ông Xiêm. Trong 6 ngôi tháp được tìm thấy, duy nhất tháp Nam (theo cách đặt tên của nhà khảo cố Pháp Parmentier) có cửa chính hướng về đông là phía mặt trời mọc như hầu hết tháp Chăm, còn lại cả 5 ngôi tháp trong cụm tháp Pô Đam đều quay mặt về hướng Nam, chếch hướng Tây một ít. Có nhà nghiên cứu lí giải rằng, cửa tháp hướng như thế để tưởng niệm tổ tiên, còn hướng nam là về thế giới bên kia, cõi âm. Dẫu sao, đây là hai hiện tượng hiếm có trong lịch sử kiến trúc tháp Chăm. Tháp Pô Đam là cụm tháp được tạo dựng vào thế kỉ thứ 8, cùng niên đại với tháp Hòa Lai ở Ninh Thuận. Hơn 12 thế kỷ sóng gió, thêm vị trí kiến trúc khá “bấp bênh”, nên tháp bị đổ nát khá nhiều. Ngoài hai ngôi tháp trục Bắc bị đổ hoàn toàn trơ ra linga, 4 ngôi thuộc trục Nam còn lại không ngôi tháp nào còn nguyên vẹn. Do đó tỉnh Bình Thuận có kế hoạch gia cố, trùng tu và tôn tạo lại. Ngoài các cổ vật quý được tìm thấy mà các báo đã đưa tin, như: Các mảnh ngói cổ có hình thù lạ, bộ bàn nghiền bằng đá (người Chăm gọi là Rathung patau), hai chiếc nhẫn mưta bằng đồng, 1 chiếc chuông nhỏ bằng đồng, 1 rìu sắt, 1 lục lạc đồng in, dưới trục tháp Bắc, người ta còn tìm thấy 1 cái chén (pata – patil) màu vàng (có thể bằng đồng hay vàng) và đặc biệt là bộ xương có thể là hài cốt mà truyền thuyết cho là của mẹ vua là Po Bia Than. Ngôi mộ của bà – như mộ của Bia Than Cih ở tháp Po Rome ở Ninh Thuận – sau đó đã được lấp lại. Phía Nam khu tháp trục Nam sau khi khai quật cũng hiện ra toàn bộ phần chân đế với các di tích quan trọng. Tháp Pô Đam là một trong những cụm tháp cổ và có cấu trúc kỳ lạ nhất trong nền kiến trúc cổ Chăm Pa ở vùng cực Nam vương quốc này. Hơn thế nữa, đó là cụm tháp sống, nghĩa là đang được cộng đồng người Chăm trong khu vực thờ phụng, cúng tế hằng năm. Khai quật mang tính khảo cổ là cần thiết, để qua đó khám phá những dấu vết chứng thực cho lịch sử đồng thời thu thập được các hiện vật làm giàu bảo tàng đất nước. Thế nhưng cần hơn nữa là làm sao tôn tạo được tháp mà không bị hư hại và nhất là không bị lai tạp, giữ phần linh thiêng của tháp như là tháp Chăm đúng nghĩa của nó. Nguồn: Du lịch Bình Thuận

Bình Thuận 1952 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Pô Klong Mơ H'Nai

Đền thờ Pô Klong Mơ HNai được xây dựng trên một ngọn đồi cao thuộc thôn Lương Bình, thị trấn Lương Sơn, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Đền là nơi thờ vua Pô Klong Mơ HNai một trong những vị vua cuối cùng của Vương quốc Chăm Pa. Dưới tiền triều Pô Ehklang, Pô Klong Mơ HNai được ban tước hiệu Maha Taha. Ông đăng cơ vào năm 1622 và tại vị đến năm 1627 thì băng hà, ông nhường ngôi cho con rể của mình. Tương truyền, Pô Klong Mơ HNai không có con trai nên đã truyền ngôi cho một mục phu người Churu được ông yêu quý, lại gả con gái cho, đấy là Pô Rome. Theo huyền tích và sử ký Panduranga, Pô Klong Mơ HNai có hai người vợ: Một là hoàng hậu Pô Bia Sơm (người Chăm) và người còn lại là thứ phi Nguyễn Thị Ngọc Thương (người Việt). Bà Ngọc Thương là ái nữ của chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên. Mặc dù tại vị trong khoảng thời gian rất ngắn, nhưng Pô Klong Mơ HNai để lại cho hậu thế cụm lăng vào hạng đẹp nhất Chăm Pa (nay là Đền thờ Pô Klong Mơ HNai) tại thôn Lương Bình, thị trấn Lương Sơn, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Nhưng trải qua chiến tranh bị xuống cấp trầm trọng nên đã được hậu duệ trùng tu lại. Ngoài ra, còn khá nhiều bảo vật bằng vàng của hoàng tộc Pô Klong Mơ HNai được chính các hậu duệ của ông gìn giữ nghiêm cẩn ở Bình Thuận. Họ cũng giữ được khá nguyên vẹn công thư giao thiệp giữa hai triều đình Panduranga và chúa Nguyễn. Ngôi đền thờ Pô Klong Mơ HNai gồm 4 gian, cửa các phòng đều quay về phía Đông và hướng Bắc. Gian chính của đền gồm 3 tầng, thu nhỏ lại ở phần đỉnh. Trên đỉnh gắn 4 con Makara (con thú trong thần thoại người Chăm) tượng trưng cho uy quyền của nhà vua. Trung tâm đền thờ đặt tượng vua Pô Klong Mơ HNai, tạc bằng một khối đá xanh lớn có trang trí hoa văn cầu kỳ đặc sắc, đây là một trong những bức tượng lớn nhất của người Chăm còn lại nguyên vẹn cho đến ngày nay. Nối tiếp với đền chính có hai ngôi đền thờ phụ thông cửa qua đền thờ chính, thờ bà hoàng hậu người Chăm, những quan lại có công trong triều đình và bà thứ phi người Việt. Đền thờ phía Bắc, thờ tượng bà hoàng hậu Chăm Pô Bia Sơm, vợ cả của vua Pô Klong Mơ HNai. Trong đền còn thờ 2 tượng kút trang trí đẹp mắt tượng trưng cho việc thờ con trai và con gái nhà vua. Gian phòng phía Nam thờ tượng bà thứ phi Nguyễn Thị Ngọc Thương người Việt. Hằng năm vào dịp Tết Katê, người Chăm xã Phan Thanh (Bắc Bình) đều tổ chức cúng tế đền thờ Pô Klong Mơ HNai với nhiều nghi thức trang trọng. Tuy là ngôi đền thờ vua Klong Mơ HNai nhưng trong đền chỉ thờ tượng vua, còn những di vật hoàng tộc thời vua Klong Mơ HNai thì được lưu giữ tại nhà bà Nguyễn Thị Đào (thôn Tịnh Mỹ – xã Phan Thanh – Bắc Bình) cách đền 15km về phía Bắc. Trước đây, bộ sưu tập này được người Raglai ở Phan Sơn (Bắc Bình) gìn giữ, khi có lễ cúng tế, người Chăm ở Phan Thanh cử một đoàn người lên tận Phan Sơn để nhận vật phẩm rồi mới làm lễ rước về đền (trong lịch sử người Chăm và người Raglai có mối quan hệ mật thiết gắn bó). Với những kiến trúc độc đáo và di vật còn gìn giữ được cho đến ngày nay, đền thờ Pô Klong Mơ HNai đã được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 13/7/1993. Nguồn: Du lịch Bình Thuận

Bình Thuận 2151 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh Thầy Thím

Dinh Thầy Thím Tọa lạc tại xã Tân Tiến, thị xã La Gi. Được xây dựng vào năm 1879, dinh có dạng kiến trúc như một ngôi đình làng bao gồm nhiều công trình. Như Tam quan, Võ ca, chính điện, nhà thờ Tiền hiền. Nhà thờ Hậu hiền, miếu ông Hổ, miếu Thành hoàng… Dinh Thầy Thím Bình Thuận được bao quanh bởi một bức tường thang vuông có chu vi gần 600m. Vòng thành được trổ 3 lối vào Dinh. Cổng chính xây ngay ở phía trước, hai bên là hai cổng phụ. Dinh được xây từ những vật liệu sẵn có ở địa phương với gỗ là nguyên liệu chủ đạo. Chất kết dính trộn từ nhựa cây, cát, vôi và mật đường. Nền lát bằng gạch Bát Tràng, mái lợp ngói âm dương. Các công trình kiến trúc chính của Dinh đều quay về hướng Tây. Bao gồm cổng chính, võ ca, chánh điện, nhà tiền hiền, bình phong, khu mộ Thầy Thím. Và một số công trình phụ cận khác. Trong đó chính điện, võ ca, nhà tiền hiền đều sử dụng lối kiến trúc “tứ trụ”. Một mô hình kiến trúc tôn giáo rất phổ biến ở Bình Thuận trong các thế kỷ 18 – 19. Đặc biệt là 4 cột chính ở khu vực trung tâm Dinh được các nghệ nhân thời bấy giờ trau chuốt và tạo dáng rất tinh tế. Đạt đến đỉnh cao trong nghệ thuật điêu khắc gỗ. Toàn bộ chân đế của các cột được gờ chỉ, cách điệu dạng một bình hoa mềm mại, phần thân cột vát thành hình trụ vuông vức, phần đỉnh cột thu nhỏ dạng hình trụ tròn. Đây là nét kiến trúc hiếm hoi và độc đáo trong gần 300 di tích ở Bình Thuận. Dinh Thầy Thím đã tồn tại hơn 130 năm. Di tích dinh Thầy Thím được Bộ Văn Hóa – Thể thao và du lịch công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia vào ngày 27/9/1997. Truyền thuyết về Thầy Thím kể rằng. Ở vùng đất mới, cuộc sống của Thầy Thím cũng như bao người dân bần hàn, kham khổ khác. Vợ chồng Thầy ở trọ trong nhà ông Hộ Hai. Ngày ngày, vợ chồng Thầy làm các nghề đốn củi, đóng ghe, bốc thuốc chữa bệnh cho người. Có điều lạ là lúc nào bên Thầy cũng có một quả bầu khô. Một hôm, nhân lúc thầy vào rừng đốn củi mà quên đem theo quả bầu, chủ nhà tò mò lấy ra xem bỗng lửa phụt ra thiêu rụi cả căn nhà. Sau khi làm lại căn nhà mới cho ông Hộ Hai, vợ chồng Thầy chuyển vào ở hẳn trong rừng để tránh điều tiếng. Tuy nhiên, ở xa nhưng danh tiếng của Thầy vẫn lan rộng, người dân trong vùng tìm đến nhờ Thầy chữa bệnh, bày cho cách làm ăn. Đặc điểm nổi bật của việc thờ cúng ở Dinh Thầy Thím là sự kết hợp hài hòa giữa nét tín ngưỡng miền Trung với niềm tin cháy bỏng của dân miền biển Tam Tân này. Huyền thoại về Thầy Thím còn lưu truyền mãi trong dân gian, ý nghĩa và giá trị của đạo lý, lẽ phải. Mộ Thầy Thím tọa lạc giữa rừng Bàu Thông, cách Dinh Thầy Thím khoảng 3km về phía Tây. Khu mộ có 4 nấm mồ được đắp bằng cát trắng thành hai hàng, trong đó hai mộ Thầy – Thím, hai mộ sau là của Bạch Hổ – Hắc Hổ được xem là vệ sĩ của Thầy Thím. Bao bọc khu mộ là bức tường thành bằng đá được xây dựng từ năm 1988 bởi ban quản lý Dinh. Hàng năm ở Dinh Thầy Thím Bình Thuận có hai dịp lễ đó là Lễ Tế Thu (diễn ra từ 14 tháng 9 đến 16 tháng 9 Âm lịch. Và Lễ Tảo Mộ (diễn ra mùng 5 tháng 1 Âm lịch). Lễ hội diễn ra có nhiều tiết mục hấp dẫn như: biểu diễn võ thuật, chèo bã trạo, múa lân thi tài, diễn xướng sự tích Thầy Thím,… Nguồn: Du lịch Phan Thiết Bình Thuận

Bình Thuận 2099 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Đức Thắng

Theo sử sách, năm 1692, Chúa Nguyễn đặt tên vùng đất mới khai phá ở cực Nam Trung bộ là Thuận Phủ; đến năm 1697 (Đinh Sửu) Phủ Bình Thuận hình thành với địa giới từ phía Nam sông Phan Rang trở vào giáp vùng đất Biên Hòa ngày nay; năm 1809, Bình Thuận phủ được đổi thành Bình Thuận trấn gồm 2 phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận. Đức Thắng xưa là một làng thuộc huyện Tuy Định, phủ Hàm Thuận và là một làng trung tâm Phan Thiết. Đình làng Đức Thắng được xây dựng từ cuối thế kỷ 18 bằng vách đất, mái tranh để thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh. Năm 1841 nhân dân góp công góp của xây dựng kiên cố, bền vững và đến năm 1847 hoàn chỉnh. Trên nóc Đình làng vẫn còn dòng chữ Hán khắc ghi niên đại xây dựng “Tân Sửu chí Đinh Mùi”, tức từ năm 1841 - 1847. So với các đình làng khác ở Bình Thuận, ngôi chính điện Đình làng Đức Thắng là một công trình kiến trúc nghệ thuật dân gian to lớn và hoàn mỹ nhất cả về kiến trúc lẫn nghệ thuật điêu khắc và tạo hình, nhất là trên nóc mái và bên trong nội thất. Nhìn từ phía trước tòa chính điện được kiến tạo thành 2 tầng mái. Tầng dưới thấp tỏa rộng, tầng trên thu nhỏ và vút cao trông như một ngọn tháp nguy nga, cổ kính. Trên nóc mái chính điện trang trí nhiều hình tượng và họa tiết như: lưỡng long tranh châu, kỳ lân, dơi, giao long, cá hóa long, muông thú, thần tiên, sông núi, hoa lá...bố trí hài hòa và sinh động. Bộ khung chính điện nơi thờ Thần Hoàng có 36 cột gỗ tròn bố trí thành 6 hàng dọc chia nội thất thành 3 gian 2 chái. Đình làng Đức Thắng là di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật dân gian tiêu biểu và đặc sắc thể hiện dấu ấn lịch sử, văn hóa xưa. Kết cấu kiến trúc được mô phỏng theo lối kiến trúc dân gian thế kỷ 17-19. Cùng với các giá trị về kiến trúc, Đình làng Đức Thắng còn chứa đựng những giá trị về lịch sử, văn hóa qua những tư liệu Hán - Nôm cổ phản ánh đầy đủ hoàn cảnh lịch sử buổi ban đầu trong quá trình khai khẩn tạo lập làng xã. Ngoài ra, đình làng còn bảo lưu nhiều di vật cổ xưa có giá trị sử dụng trong việc thờ phụng và cúng tế. Trong đó có 13 sắc phong của các đời vua Triều Nguyễn ban tặng cho Thành Hoàng Bổn Cảnh cũng như các vị Tiền Hiền của làng. Bên cạnh Đình làng Đức Thắng còn có Chùa Bà Đức Sanh thờ Tam vị Thánh mẫu phò trợ việc an thai cho phụ nữ được tạo lập dưới thời vua Thiệu Trị (1844) và trùng tu vào các năm 1902 và 1911. Xa hơn một chút là Vạn Thủy Tú do cư dân Đức Thắng xây dựng vào năm 1762 (Nhâm Ngọ) để thờ Thần Nam Hải phò trợ nghề biển. Cả 3 di tích cùng tạo nên quần thể độc đáo ghi dấu tổ tiên vùng đất Phan Thiết - Bình Thuận những ngày đầu khai cơ lập ấp, mang những giá trị văn hóa truyền thống vun đắp tấm lòng yêu quê hương đất nước cho nhân dân. Hiện nay, Đình làng Đức Thắng cũng như Chùa Bà Đức Sanh và Vạn Thủy Tú là những điểm tham quan nằm trong Đề án City tour tham quan thành phố du lịch Phan Thiết. Nhân dân và du khách trong, ngoài nước muốn khám phá và tìm hiểu về những nét độc đáo của văn hóa miền biển Bình Thuận hãy đến với thắng tích Đình làng Đức Thắng, đường Triệu Quang Phục, phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Nguồn: Trang Thông Tin Điện Tử Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Bình Thuận

Bình Thuận 2060 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đình làng Đức Nghĩa

Đình làng Đức Nghĩa là một ngôi đình cổ nằm ở phường Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Đình làng Đức nghĩa được xây dựng vào những thập niên đầu thế kỷ 19, trên một động cát cao, phía trước có ao sen lớn. Đình có diện tích khoảng hơn ba ngàn mét vuông, hướng quay nhìn ra con sông Cà Ty (nay thuộc phường Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận). Đình làng Đức Nghĩa có dạng kiến trúc hình chữ đinh (chữ J), cổ lầu là nơi tập trung phần trang trí nghệ thuật đặc sắc nhất trong tổng thể đình làng. Ở đây nghệ nhân xưa đã dùng nghệ thuật ghép mảnh sứ, sành để tạo nên hình tượng “Tứ Linh”, những phần dưới của mái hạ, các bờ nóc, bờ quyết cũng được trang trí nghệ thuật làm ngôi đình vừa cổ kính vừa trang nghiêm. Nhà thờ Tiền Hiền, Hậu Hiền cũng có lối kiến trúc như đình chính nhưng chiều dài có phần kéo ra hơn. Đây là đặc trưng của kiến trúc đình làng nửa sau thế kỷ 19 ở Bình Thuận.,. Nội thất của Đình làng Đức Nghĩa , nhất là ở phần trang trí nghệ thuật chạm khắc bên trong Đình chính với hệ thống bao lam bằng gỗ, như bức rèm như xuống các khám thờ sống động bởi những dây leo, hoa lá, chim muông từ những chạm khắc của người thợ xưa. Nghệ thuật trang trí Đình làng Đức Nghĩa cả ngoại thất và nội thất phối hợp với nhau tạo nên những đường nét kiến trúc cổ hài hoà và đạt đến đỉnh cao so với một số ngôi đình trong thời kỳ này. Nội dung thờ phụng bên trong như một kho tàng lưu trữ hàng trăm hiện vật quý như hoành phi, liên đối, khám thờ đã được chạm trổ công phu và được lưu truyền qua nhiều thế hệ đến ngày nay. Tiền Hiền của làng đang thờ tại Đình gồm các ông Nguyễn Văn Bàng, Trần Văn Kim, Lê Văn Hanh, Nguyễn Văn Thạnh là những đại diện cho các họ có công khai khẩn lập làng, dựng đình mà tên tuổi của họ đã được dân làng trân trọng khắc ghi trong bài vị thờ ở đình. Đình làng Đức Nghĩa còn có nhiều bức hoành phi, câu đối bằng chữ Hán, một số công văn, giấy tờ báo cáo tình hình quân sự tại Bình Thuận của một viên quan họ Châu dưới triều Gia Long, trong đó có đề cập đến ruộng đất của làng, đến lịch sử văn đầu thế kỷ 19 nguồn gốc dân cư ở làng...quan trọng nhất trong số đó có 13 sắc phong của các đời vua Triều Nguyễn ban tặng cho Thành Hoàng làng cùng các vị thần khác, kể cả nữ Thần Thiên YAna Diễn Ngọc Phi của người Chăm, và 3 tờ chiếu, dụ viết từ giấy lụa màu vàng, hình rồng ẩn trong mây kèm chữ thọ, hạt châu,… Các nghi thức cúng tế chính ở đình làng vào dịp tế Xuân từ 14-16 tháng giêng Âm lịch và tế Thu từ 14-16 tháng 8 âm lịch. Đình làng Đức Nghĩa đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia năm 1991, là một trong những ngôi đình cổ trong danh sách các ngôi đình cổ ở Việt nam. Nguồn: Địa danh Bình Thuận

Bình Thuận 2086 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh Vạn Thủy Tú

Dinh Vạn Thủy Tú nằm trên đường Ngư Ông, phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật cổ gắn liền với lịch sử và văn hóa của nghề đi biển, đặc biệt là tục thờ cúng thần Nam Hải (cá Ông - cá voi) của ngư dân tỉnh Bình Thuận nói chung và Phan Thiết nói riêng. Theo tín ngưỡng của cư dân đi biển vùng Nam Trung Bộ nói riêng và của người Việt nói chung, cá Ông chính là vị thủy thần thường hiện lên cứu giúp họ mỗi khi gặp phải phong ba bão táp, tai nạn trên biển, nên người đi biển rất sùng kính cá Ông, coi như một vị thần hộ mệnh. Vì thế, khi gặp cá Ông chết (tục gọi là cá Ông lụy) người ta thường làm lễ chôn cất và thờ cúng rất thành kính. Trở lại với câu chuyện của dinh Vạn Thủy Tú, theo các tài liệu cổ, dinh này được tạo lập vào năm Nhâm Ngọ (1762) để thờ cá Ông. Lúc đầu dinh chỉ là một gian nhà gỗ lợp mái lá, sau đó được tôn tạo hoàn chỉnh dần bằng tường gạch, mái lợp ngói âm dương với tổng diện tích khoảng chừng hơn 500m2. Dẫu đã trải qua hơn 250 năm sương gió nhưng công trình kiến trúc này vẫn còn gìn giữ được khá nguyên vẹn. Do cách thiết kế, bài trí và thờ phụng của dinh Vạn Thủy Tú khá giống với đình nên cũng có thể gọi nó là đình. Hương án chính giữa dinh Vạn Thủy Tú thờ Nam Hải Cự tộc Ngọc lân Tôn thần (tức ông Nam Hải), khám tả thờ Hy hoàng Thái hiệu Tiên sư Tôn thần (ông tổ nghề nông ngư nghiệp), khám hữu thờ Thủy long Thánh phi Nương nương Tôn thần (nữ thần nước). Nói tóm lại là thờ những nhân vật liên quan đến nghề biển. Ngoài ra, dinh Vạn Thủy Tú còn có nhiều di sản văn hóa Hán - Nôm liên quan đến nghề biển, thể hiện trong nội dung thờ phụng ở các khám thờ, tượng thờ, hoành phi, câu đối, trên văn khắc của đại hồng chung... Nơi đây cũng là một trong những di tích cổ có số lượng lớn sắc phong của các vị vua triều Nguyễn ban tặng. Bởi theo như sử cũ kể lại thì xưa kia, lúc giao tranh với nhà Tây Sơn, các tướng lĩnh nhà Nguyễn đã nhiều lần được cá voi cứu nạn trên biển. Hiện trong dinh có 24 đạo sắc phong của các đời vua: Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân, Khải Định. Riêng vua Thiệu Trị ban tặng 10 sắc Thần, đây là điều hiếm thấy so với các di tích khác. Trong khuôn viên dinh Vạn Thủy Tú có một vùng đất rộng gọi là Ngọc Lân Thánh địa dùng để mai táng cá Ông mỗi khi Ông lụy và dạt từ biển vào. Theo phong tục, ngư dân nào trông thấy “Ông” lụy đầu tiên thì được làm “con trưởng” của “ngài”, và người này có nhiệm vụ lo làm đám tang chu đáo, để tang sau ba năm mới mãn tang... Điều này cho thấy một phong tục lạ của ngư dân đối với cá Ông theo tín ngưỡng gần như quan hệ giữa người với người. Đặc biệt, trong dinh Vạn Thủy Tú hiện đang lưu giữ và thờ phụng một bộ xương cá Ông, thuộc loài cá voi lưng xám, dài và lớn nhất Việt Nam và cả Đông Nam Á, với chiều dài và trọng lượng lúc Ông còn sống khoảng 22m, 65 tấn, được bảo quản hầu như không mất một phần xương nào. Bộ xương có niên đại đã hơn 100 năm. Dinh Vạn Thủy Tú thật sự là nơi linh thiêng, mang lại nhiều phước lành cho bà con vùng biển Phan Thiết”. Nguồn: Trung Tâm Xúc Tiến Du Lịch Tỉnh Bình Thuận

Bình Thuận 1955 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Trường Dục Thanh

Trường Dục Thanh Nơi thầy giáo Nguyễn Tất Thành (Tên gọi của Bác Hồ lúc 20 tuổi) dạy học năm 1910, trước khi vào Sài Gòn ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Trường Dục Thanh, trước kia được biết đến với tên gọi Dục Thanh Học Hiệu, ra đời từ năm 1907. Nằm tại làng Thành Đức, số 39 đường Trưng Nhị, phường Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết, ngôi trường gần sông Cà Ty tuyệt vời và yên bình. Dục Thanh Học Hiệu ra đời nhờ tình yêu nước của các sĩ phu và nhà nho tại Trung Kỳ. Nguồn kinh phí xây dựng đến từ tấm lòng hảo tâm của ông Huỳnh Văn Đẩu và Liên Thành Thương Quán. Tất cả học sinh ở đây đều được học miễn phí. Đây là trường tư thục có nội dung giảng dạy tiến bộ ở tỉnh Bình Thuận lúc bấy giờ. Liên Thành Thương quán (công ty Liên Thành) là một tổ chức yêu nước hồi đầu thế kỷ 20. Hoạt động trong lĩnh vực kinh tế. Dục Thanh Học hiệu mở lớp dạy những nội dung yêu nước theo tư tưởng tiến bộ cho con em người yêu nước và lao động nghèo, nhằm hưởng ứng phong trào Duy Tân mà Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng tại Trung Kỳ. Công ty Liên Thành hoạt động có hiệu quả, bí mật đóng góp một phần tài chính cho phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Liên Thành thư xã do Nguyễn Hiệt Chi phụ trách mời nhiều diễn giả đến diễn thuyết, trong đó có Phan Châu Trinh, gây được tiếng vang sôi nổi. Đặc biệt Dục Thanh học hiệu đã đào tạo được một lớp trẻ học tập theo sách vở và tinh thần mới. Năm 1910, Nguyễn Tất Thành được ông nghè Trương Gia Mô giới thiệu, đã đến Phan Thiết dạy học tại ngôi trường này. Lúc ấy, trường có khoảng 60 học sinh và 7 thầy giáo giảng dạy các bộ môn: Hán văn, Pháp văn, thể dục… Một trong những học sinh của trường là Nguyễn Kinh Chi con cụ Nguyễn Hiệt Chi, về sau là Bác sĩ, Thứ trưởng Bộ Y tế Việt Nam dân chủ cộng hòa, đại biểu Quốc hội khóa 1 – 4, là học trò trực tiếp của thầy Nguyễn Tất Thành. Nguyễn Tất Thành dạy lớp nhì, chủ yếu là dạy Chữ Quốc ngữ và Hán văn. Trong thời gian này, ngoài những nội dung được phân công giảng dạy, Nguyễn Tất Thành còn truyền bá lòng yêu quê hương đất nước, nòi giống tổ tiên cho học sinh. Trong những giờ học ngoại khóa hay những lúc rảnh, Nguyễn Tất Thành còn dẫn học sinh của mình du ngoạn cảnh đẹp ở Phan Thiết như bãi biển Thương Chánh, động làng Thiềng, Đình làng Đức Nghĩa. Tháng 2 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời trường Dục Thanh và Phan Thiết vào Sài Gòn. Một năm sau, không còn ai phụ trách và vì nhiều lý do khách quan khác nên trường đóng cửa vào năm 1912. Kiến trúc trường Dục Thanh mang đậm nét truyền thống Á Đông. Trường có ba căn, trong đó hai căn nhà lớn để làm phòng học và một căn nhà lầu. Trong phòng học được đặt các bàn ghế gỗ phía dưới, phía trên là bảng đen để dạy học. Khuôn viên ở trường là vườn cây xanh mát, được chăm chút gọn gàng và cẩn thận. Bên phải gian nhà chính, là nhà Ngư được sử dụng để làm nơi ăn ở nội trú cho học sinh và thầy giáo. Ngọa Du Sào là khu để tiếp khách và bàn luận thơ ca nằm ngay sau phòng học và Nhà Ngư. Trong khuôn viên trường có một miệng giếng để lấy nước sinh hoạt. Nguồn: Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận

Bình Thuận 2546 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật