Ứng dụng số 1 về khám phá du lịch 63 tỉnh thành Việt Nam

Khám phá lịch sử, văn hóa, con người và cảnh đẹp Việt Nam trên ứng dụng du lịch 63Stravel

Tải ứng dụng 63Stravel

Logo 63stravel

Di tích lịch sử

Việt nam

Chùa Thiên Mụ

Chùa Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất của Huế, tọa lạc trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương. Chùa Thiên Mụ là một danh lam thắng cảnh vào bậc nhất của cố đô Huế. Chùa được xây trên đỉnh một ngọn đồi cao ngay bên bờ sông Hương đối diện vùng đất Long Thọ. Trước cửa chùa có tháp kiến trúc theo hình bát giác, một kiểu bố cục theo hình bát quái. Tháp này gồm có 6 tầng đều nhau nhưng càng lên cao thì diện tích lại được thu nhỏ lại. Mỗi tầng có một mái nhỏ chìa ra với những đường nét trang trí khá tinh vi, đều đặn và sinh động lạ thường. Mỗi mặt có một cửa cuốn khá lớn hình chữ nhật nhưng chung quanh có nhiều mô hình long nguyệt. Trên cùng là một mái nhỏ 8 cạnh. Chính giữa có trang trí một hình nậm rượu có mũi nhọn. Chung quanh có những mô hình vân vũ. Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê. Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn. Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là "Thiên Mụ". Với quy mô được mở rộng và cảnh đẹp tự nhiên, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao sóng gió lịch sử, chùa Thiên Mụ từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều vua nhà Nguyễn. Năm 1884, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” (mừng sinh nhật thứ 80) của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: Xây thêm tháp Từ Nhân (sau đổi là tháp Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng hai tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua. Khuôn viên chùa được chia làm hai khu vực: Khu vực trước cửa Nghi Môn gồm có các công trình kiến trúc: Bến thuyền có 24 bậc tam cấp lên xuống, cổng tam quan là bốn trụ biểu xây sát đường cái, từ cổng tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện (nay chỉ còn lại nền đất và bộ móng xây bằng đá thanh) sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên xây bằng gạch vồ bảy tầng cao vời vợi, hai bên đình Hương Nguyện có hai lầu bia hình tứ giác (dựng thời Thiệu Trị), lui về phía trong có hai lầu hình lục giác một lầu để bia và một lầu để chuông (dựng thời Nguyễn Phúc Chu). Đây là những công trình có tính chất lưu niệm (bia, tháp). Khu vực phía trong cửa Nghi Môn gồm các điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan âm, nhà Trai, nhà Khách, vườn hoa, phía sau cùng là vườn thông tĩnh mịch. Chùa Thiên Mụ như một chứng nhân lịch sử diễn ra trên đôi bờ sông Hương. Ngôi chùa vẫn luôn tồn tại trong tâm thức người dân Huế nói riêng và đời sống văn hóa người Việt Nam nói chung. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam

Thừa Thiên Huế 1815 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lăng Gia Long

Lăng Gia Long nằm trong dãy núi Thiên Thọ, thuộc xã Hương Thọ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, cách trung tâm Tp Huế 16km. Lăng Gia Long là một quần thể nhiều lăng tẩm trong hoàng quyến. Kiến trúc lăng có vẻ đơn sơ nhưng hoành tráng. Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi, núi lớn, nhỏ, trong đó có Ðại Thiên Thọ là ngọn núi lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và là tên gọi của cả quần sơn này. Lăng bắt đầu được xây dựng từ năm 1814 và đến năm 1820 mới hoàn tất. Từ bờ sông Hương đi vào lăng có con đường rộng, hai bên trồng thông và sầu đông cao vút, xanh um, tạo ra một không khí trong mát, tĩnh mịch. Hai cột trụ biểu uy nghi nằm ở ngoài cùng, báo hiệu khu vực lăng. Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng, rộng lớn. Trước có ngọn Ðại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu án. Bên trái có 14 ngọn núi làm "tả thanh long" và bên phải có 14 ngọn làm “hữu bạch hổ”. Tổng thể lăng được chia làm 3 khu vực: Chính giữa là lăng mộ vua và Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu. Qua khỏi sân chầu có các hàng tượng đá uy nghiêm và bảy cấp sân tế là Bửu Thánh ở đỉnh đồi. Trong Bửu Thánh có 2 ngôi mộ đá được sáng tác theo quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” biểu tượng cho hạnh phúc và thuỷ chung. Bên phải là khu tẩm điện mà điện Minh Thành là trung tâm nơi thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Trước đây trong điện Minh Thành có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến của Gia Long. Bên trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn tấm bia lớn ghi bài “Thánh Ðức Thần Công” của vua Minh Mạng soạn, ca ngợi vua cha được chạm khắc tinh tế, sắc sảo. Ngoài ra còn có các lăng phụ cận trong khu vực này như lăng Quang Hưng (bà vợ thứ hai của chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần), lăng Vĩnh Mậu (vợ chúa Ngãi vương Nguyễn Phúc Trăn); lăng Toại Thánh (vợ thứ hai của Nguyễn Phúc Luân và là thân mẫu của Gia Long),...lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, thân mẫu của vua Minh Mạng, bên cạnh có điện Gia Thành dùng để thờ. Lăng Gia Long là một bức tranh tuyệt vời giữa thiên nhiên và kiến trúc đã tạo nên nét hùng vĩ hoành tráng của cảnh quan. Vua Gia Long tên thật là Nguyễn Phúc Ánh, tên húy là Chủng, sinh năm 1762, con thứ ba của Nguyễn Luân. Năm 1773, Tây Sơn khởi nghĩa, Nguyễn Phúc Ánh 12 tuổi, theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào Quảng Nam. Mùa thu năm Ðinh Dậu (1777) Nguyễn Phúc Thuần tử trận, Nguyễn Phúc Ánh một mình chạy thoát ra đảo Thổ Chu, rồi sau chạy sang ẩn náu nhờ bên đất Xiêm. Tháng 7/1792, vua Quang Trung mất, con là Quang Toản còn ít tuổi. Nguyễn Phúc Ánh đã tổ chức tấn công và tiêu diệt nhà Tây Sơn. Ông lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Gia Long đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế) và đặt tên nước là Việt Nam. Ngày Ðinh Mùi tháng 12 năm Kỷ Mão (1819), Gia Long mất, thọ 59 tuổi, ở ngôi chúa 25 năm, ở ngôi vua 17 năm. Lăng Gia Long (hay còn gọi là Thiên Thọ Lăng) là nơi an nghỉ của vị vua đầu tiên sáng lập ra triều Nguyễn. Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam

Thừa Thiên Huế 1803 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lăng Minh Mạng

Lăng Minh Mạng thuộc Xã Hương Thọ, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng) nằm trên ngọn núi Cẩm Kê cách thành phố Huế khoảng 14km, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp nguồn tạo thành sông Hương. Lăng được khởi công xây dựng vào tháng 9 năm 1840 và được Vua Thiệu Trị tiếp tục xây dựng hoàn tất vào năm 1843. Lăng Minh Mạng là một mô hình kiến trúc quy mô gồm 40 công trình lớn nhỏ, bao gồm cung điện, đền miếu và đài tạ... được bố trí trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700m từ Đại Hồng môn ở ngoài cùng tới chân tường của la thành sau mộ vua. Hình thế của lăng tựa dáng một người đang nằm nghỉ trong tư thế đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên. Mở đầu Thần đạo là Đại Hồng môn (cổng chính vào Lăng), cao 9m, rộng 12m, cổng này có ba lối đi, lối đi giữa chỉ mở một lần để đưa quan tài nhà vua vào lăng sau đó đóng chặt, ngoài ra còn có hai cổng phụ Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Sau Đại Hồng Môn là sân rộng 45m x 45m, hai bên có hai hàng tượng quan viên, voi ngựa. Cuối sân là Bi đình, trên bia có bài “Thánh Đức thần công” (ghi công của Vua Minh Mạng). Tiếp theo là sân triều lễ; Hiển Đức môn mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng cho mặt đất. Điện Sùng Ân nằm ở trung tâm, xung quanh có Tả, Hữu, Phối điện (trước) và Tả Hữu Tùng phòng (sau) cũng được giới hạn trong lớp tường thành hình vuông. Hoàng Trạch môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện. Đi qua ba cây cầu bắc qua hồ Trừng Minh là tới Minh Lâu, Minh Lâu là lầu sáng là nơi vua suy ngẫm và là nơi đi về của linh hồn Tiên đế. Một cái hồ hình trăng non tên Tân Nguyệt ôm lấy Bửu thành hình tròn nằm ở giữa, đây là nơi bắt đầu của thế giới vô biên, nơi yên nghỉ của nhà Vua giữa tâm một quả đồi mang tên Khai Trạch Sơn. Hai bên trục chính của lăng còn có nhiều công trình phụ nằm đối xứng nhau theo từng cặp. Lăng Minh mạng với hai hồ và kiến trúc trang hoàng tuyệt đẹp, là một trong những lăng tẩm uy nghi, đường bệ nhất trong các lăng tẩm của vua nhà Nguyễn. Công trình được công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 29/4/1997. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế 1713 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lăng Tự Đức

Lăng Tự Đức có địa chỉ tại Phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Lăng Tự Đức (Khiêm Lăng) được xây dựng trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng (nay là thôn Thượng Ba, phường Thủy Xuân, thành phố Huế). Đây là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc cung đình thời Nguyễn. Lăng nằm giữa một rừng thông bát ngát, cách Huế 8km. Tổng thể kiến trúc Lăng nằm trong một vòng La thành rộng khoảng 12ha, gồm gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành từng cụm trên những thế đất cao, thấp hơn nhau chừng 10m. Bố cục khu lăng gồm hai phần chính, trên hai trục song song với nhau lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm Tiền án, núi Dương Xuân làm Hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố Minh Đường. Các công trình trong Lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm đặt tên gọi. Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Qua cửa Vụ Khiêm, đến khu vực hồ Lưu Khiêm, trên hồ có Xung Khiêm tạ và Dũ Khiêm tạ, nơi nhà Vua thường đến ngắm hoa, làm thơ và đọc sách. Đi tiếp ba bậc tam cấp bằng đá thanh dẫn vào Khiêm Cung môn, rồi đến điện Hòa Khiêm, đây vốn là nơi làm việc của Vua nhưng nay dùng để thờ phụng Vua và Hoàng hậu. Sau điện Hòa Khiêm đến điện Lương Khiêm, trước là chỗ nghỉ của Vua và sau này trở thành nơi thờ mẹ Vua, bà Từ Dũ. Bên phải điện Lương Khiêm là Ôn Khiêm đường, nơi cất đồ ngự dụng. Phía trái điện Lương Khiêm có nhà hát Minh Khiêm để Vua xem hát, đây được coi là nhà hát cổ nhất Việt Nam hiện còn được bảo tồn. Ngay sau hai hàng tượng quan văn võ uy nghi là Bi đình (nhà bia), tấm bia làm bằng đá thanh lớn có khắc bài Khiêm Cung ký của Vua Tự Đức dài 4.935 chữ để nói về cuộc đời, vương nghiệp cùng những lỗi lầm và sai phạm của mình. Trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là Bửu Thành xây bằng gạch, chính giữa có ngôi nhà nhỏ xây bằng đá thanh, nơi Vua yên nghỉ. Lăng Tự Đức là một bài thơ tuyệt tác, một bức tranh sơn thủy hữu tình. Công trình được công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 29/4/1979. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế 1831 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Lăng Khải Định

Lăng Khải Định hay còn gọi là Ứng Lăng ở Xã Thủy Bằng, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vua Khải Định (1916-1925) là vị vua thứ 12 của triều Nguyễn và là người cuối cùng xây dựng lăng tẩm, chuẩn bị cho sự “ra đi” của một ông vua. Lăng Khải Định được xây dựng trên triền núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê) cách trung tâm thành phố Huế 10km. Lăng khởi công ngày 4/9/1920 và kéo dài trong 11 năm mới hoàn thành. Vua Khải Định cử người sang Pháp mua sắt, thép, xi măng, ngói ác đoa, sang Trung Quốc, Nhật Bản mua đồ sứ, thủy tinh để kiến thiết công trình. So với các Lăng trong hệ thống lăng tẩm ở Huế, lăng Khải Định có diện tích nhỏ (117m 48,5m) nhưng rất công phu và tốn nhiều thời gian. Nó là kết quả hội nhập của nhiều dòng kiến trúc Á, Âu, Việt Nam cổ điển và hiện đại. Tổng thể của Lăng là một khối nổi hình chữ nhật vươn cao tới 127 bậc. Núi đồi, khe suối của một vùng rộng lớn quanh Lăng được dùng làm các yếu tố phong thủy: tiền án, hậu chẩm, tả thanh long, hữu bạch hổ, minh đường, thủy tụ, tạo cho lăng Khải Định một ngoại cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Cung Thiên Định ở vị trí cao nhất và là kiến trúc chính của Lăng. Công trình này gồm 5 phần liền nhau: Hai bên là Tả, Hữu Trực phòng dành cho lính hộ lăng, phía trước là điện Khải Thành - nơi để án thờ và chân dung vua Khải Định, chính giữa là Bửu án, pho tượng nhà vua và mộ phần ở phía dưới, trong cùng là khám thờ với bài vị của vị vua quá cố. Giá trị nghệ thuật cao nhất của Lăng là phần trang trí nội thất cung Thiên Định. Ba gian giữa trong cung đều được trang trí phù điêu ghép bằng sánh sứ và thủy tinh màu. Đặc biệt chiếc Bửu tán trên pho tượng đồng, nặng 1 tấn với những đường lượn mềm mại, thanh thoát khiến người xem có cảm giác làm bằng nhung lụa rất nhẹ nhàng. Bên dưới Bửu tán là pho tượng đồng Vua Khải Định được đúc tại Pháp năm 1922 theo yêu cầu của nhà vua. Người chịu trách nhiệm chính trong việc kiến tạo những tuyệt tác nghệ thuật trong lăng Khải Định là nghệ nhân Phan Văn Tách, tác giả của ba bức bích họa “Cửu long ẩn vân” lớn vào bậc nhất nước ta, được trang trí trên trần ba gian giữa cung Thiên Định. Lăng Khải Định là đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình sành sứ và thủy tinh, đây thực sự là một công trình có giá trị nghệ thuật và kiến trúc. Lăng Khải Định được công nhận là di tích cấp quốc gia ngày 29/4/1979. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế 1648 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đại Nội Huế

Đại Nội Huế có địa chỉ tại Đường 23/8, phường Thuận Hòa, Thành phố Huế, Tỉnh Thừa Thiên Huế, bên bờ sông Hương thơ mộng. Đại Nội Huế được xây dựng từ nửa đầu thế kỉ XX, đây là một trong số các di tích được UNESCO công nhận là di sản văn hóa Thế giới từ năm 1993. Đại Nội Huế chính là nơi sinh hoạt và diễn ra các hoạt động của vua chúa Nguyễn cùng triều đình phong kiến cuối cùng của nước ta. Huế là vùng đất bình yên và thơ mộng, nên vua Gia Long đã lựa chọn nơi này để xây dựng công trình Đại Nội Huế vào năm 1803. Phải mất 30 năm, công trình này mới chính thức được hoàn thành trọn vẹn. Đại Nội Huế được xây dựng với lối kiến trúc cung đình Huế vì vậy từng đường nét, cách thức bài trí đều rất tinh xảo. Đại Nội Huế có hai khu vực chính là Hoàng thành và Tử Cấm thành, mỗi khu vực lại bao gồm nhiều công trình khác nhau. Khu Hoàng thành gồm có cổng Ngọ Môn, Điện Thái Hòa. Tử Cấm thành là khu vực dành riêng cho vua và hoàng tộc, gồm Đại Cung Môn, Tả Vu và Hữu Vu, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Cung Diên Thọ... 1. Khu Hoàng thành Cổng Ngọ Môn được xây dựng đồ sộ, hoành tráng với các đường nét hoa văn hết sức kỳ công, tinh xảo và vững chắc. Ngọ Môn không chỉ đơn giản là cổng ra vào mà còn là bộ mặt đại diện cho Đại Nội cung đình Huế nên được thiết kế gồm nhiều lớp với hệ thống hào nước xung quanh. Cổng Ngọ Môn của Hoàng thành Huế nhìn về phía Nam kinh thành và có 5 cửa, cửa chính ở giữa dành cho vua đi, hai cổng bên dành cho quan văn và quan võ. Còn lại, khu vực hai cổng bên quanh là dành cho binh lính cùng voi ngựa theo hầu vua để bảo vệ cũng như hầu hạ vua. Điện Thái Hòa là một biểu tượng về quyền lực của Hoàng triều nhà Nguyễn thời bấy giờ. Điện Thái hòa là công trình quan trọng bậc nhất trong tổng thể Đại Nội Kinh Thành Huế, nơi đây cùng Sân Đại Triều Nghi từng là nơi diễn ra các buổi thiết triều của triều đình nhà Nguyễn mà đa số đây đều là những buổi thiết triều quan trọng. Điện Thái Hòa sử dụng chất liệu là gỗ lim. Phần mái điện, cột… được điêu khắc hình rồng uốn lượn đầy tinh tế, tỉ mỉ. Chính giữa điện là ngai vàng của vua được đặt ở vị trí trang nghiêm, nơi vua ngồi trong các buổi thiết triều. 2. Khu Tử Cấm thành Đại Cung Môn là cửa chính (hướng Nam) vào Tử Cấm thành, gồm có 5 gian 3 cửa và được xây dựng vào thời vua Minh Mạng, năm 1833. Cửa ở gian chính giữa chỉ dành cho vua đi, mặt sau hai bên có hai hành lang nối với Tả Vu, Hữu Vu. Đại Cung Môn nhìn ra sân trước hướng ra Điện Thái Hòa, được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, phía trên lợp bằng ngói hoàng lưu ly. Tả Vu và Hữu Vu là hai tòa nhà ngay đối diện điện Cần Chánh, xây dựng đầu thế kỷ 19. Tòa nhà Tả Vu được xây dựng cho các quan văn, Hữu Vu là nơi dành cho các quan võ trong triều. Hai tòa nhà này là nơi để chuẩn bị cho các nghi thức trước buổi thiết triều, nơi tổ chức các cuộc thi Đình hay yến tiệc. Điện Cần Chánh nằm thẳng với Điện Thái Hòa theo hướng Bắc Nam, đây là nơi để vua thiết triều. Điện Cần Chánh được xem là điện có kết cấu gỗ lớn và đẹp nhất trong toàn bộ Tử Cấm thành. Các bộ cột bằng gỗ lim, phần khung phía trên được trạm trổ tinh xảo, công phu. Thái Bình Lâu nằm ở bên trong Tử Cấm thành của khu Đại Nội Huế, nơi đây sẽ dùng để nhà vua nghỉ ngơi lúc rảnh rỗi, đọc sách, viết văn hay làm thơ thư giãn . Thái Bình Lâu được xây dựng vào những năm 1919 do vua Khải Định khởi công được hoàn thành vào năm 1921. Trong số nhiều cung điện trong Hoàng thành Huế, Cung Diên Thọ được xem là một hệ thống kiến trúc cung điện mang tầm cỡ quy mô nhất ở Huế . Nơi đây là nơi ở của các Hoàng Thái Hậu và các Thái Hoàng Thái Hậu những người phụ nữ quyền lực ở bên cạnh vua. Đại Nội Huế là công trình có quy mô đồ sộ nhất lịch sử Việt Nam với thời gian xây dựng kéo dài trong nhiều năm với hàng vạn người thi công cùng các hoạt động lấp sông, đào hào, đắp thành, bên cạnh đó là khối lượng đất đá khổng lồ lên tới hàng triệu mét khối. Đến thăm quan quần thể di tích Đại Nội Huế, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hàng trăm công trình miếu thờ, đền đài và cung điện nguy nga bề thế. Với vẻ đẹp tráng lệ kết hợp với nét kiến trúc độc đáo hứa hẹn sẽ là điểm đến mang lại cho bạn nhiều trải nghiệm thú vị. Nguồn: Cổng thông tin du lịch Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế 1911 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Nhà Lưu Niệm Chủ Tịch Hồ Chí Minh

Nhà Lưu Niệm Bác Hồ ở số 112 (số mới 158) Mai Thúc Loan, Phường Thuận Lộc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là ngôi nhà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống khi theo gia đình vào Huế lần thứ nhất từ 1895 - 1901. Năm 1894, ông Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh) thi đỗ Cử nhân ở trường thi Hương Nghệ An, năm 1895 ông vào Huế thi Hội nhưng không đỗ. Để chuẩn bị cho kỳ thi sau, ông xin vào học trường Quốc Tử Giám - Huế và được chấp nhận. Để có điều kiện chăm sóc con cái, và gia đình cũng là nguồn động viện ông trong những tháng ngày đèn sách, ông về quê, cùng vợ là bà Hoàng Thị Loan đưa hai con trai là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung vào Huế. Nhờ người quen giới thiệu, ông thuê được một gian nhà nhỏ ở đường Đông Ba (là ngôi nhà di tích hiện nay). Tại ngôi nhà này, Cậu Nguyễn Sinh Cung (Tên Bác Hồ lúc nhỏ) đã sống những năm tháng hạnh phúc cùng gia đình: Người cha mẫu mực nhưng nghiêm khắc, đêm ngày chuyên tâm chăm lo việc đèn sách; người mẹ hiền từ, đảm đang, tảo tần bên khung cửi và niềm vui khi đón em Nguyễn Sinh Xin chào đời. Nhưng tại ngôi nhà này cũng in đậm trong tâm hồn Nguyễn Sinh Cung nỗi đau mất mẹ, tiếng khóc khát sữa của em thơ. Và sự yêu thương, đùm bọc của bà con nghèo xứ Huế. Nghĩa tình sâu nặng đó chính là những giá trị văn hóa góp phần hình thành nhân cách đạo đức và chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - Người suốt đời phấn đấu vì độc lập, tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Nhà lưu niệm Bác Hồ tại 112 Mai Thúc Loan là một ngôi nhà gỗ rộng ba gian, gồm 4 vài cột, kiến trúc theo kiểu nhà rường truyền thống của Huế, với mái lợp ngói liệt, tường bao quanh bằng gạch vồ, mặt trước là hệ thống cửa bản khoa “thượng song, hạ đố”; nối với nhà chính là nhà bếp, vách trát đất, mái lợp tranh. Ngôi nhà nằm trong một tổng thể nhà - sân - vườn hoàn chỉnh. Đặc biệt, ngôi nhà này là nơi bà Hoàng Thị Loan sinh người con thứ tư là cậu bé Nguyễn Sinh Xin và cũng là nơi bà trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 33 vào ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý (tức 10/2/1901). * Nhà lưu niệm Bác Hồ tại đường Mai Thúc Loan, Ngôi nhà đã được Bộ Văn Hoá Thông tin công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 02/02/1993. * Ngày 31/12/2020, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định xếp hạng Hệ thống di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Thừa Thiên Huế là di tích lịch sử cấp Quốc gia đặc biệt. (gồm 4 di tích đã được xếp hạng Quốc gia trước đây là: Nhà lưu niệm Bác Hồ ở đường Mai Thúc Loan; Địa điểm Trường Quốc Học Huế; Nhà lưu niệm thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở làng Dương Nỗ và Đình làng Dương Nỗ). Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế 1852 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Bảo tàng Hồ Chí Minh

Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Huế thành lập ngày 16/9/1980, theo chỉ đạo của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, trên cơ sở Nhà trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 30 tháng 6 năm 1982, Bảo tàng Hồ Chí Minh Bình Trị Thiên chính thức trở thành thành viên của hệ thống Bảo tàng và di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ năm 1989, sau khi tỉnh Bình Trị Thiên tách ra làm ba tỉnh, Bảo tàng Hồ Chí Minh Bình Trị Thiên đổi thành Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế, chức năng và nhiệm vụ không thay đổi. Ngày 19 tháng 5 năm 1998, nhân kỷ niệm 108 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế chính thức được khởi công xây dựng lại và khánh thành vào ngày 19 tháng 5 năm 2000. Năm 2007, Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế được xếp hạng là bảo tàng hạng II ngày 27 tháng 9 năm 2007 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế trải qua hơn 40 năm hình thành và phát triển đã có một cơ sở vật chất khang trang, hiện đại. Thừa Thiên Huế, mảnh đất đã nuôi dưỡng tuổi thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm tháng Người cùng gia đình sinh sống, học tập và tham gia các hoạt động yêu nước giai đoạn 1895 -1901 và 1906 - 1909. Chính nơi đây đã góp phần hun đúc và hình thành tư tưởng yêu nước của Người, để từ đó thôi thúc Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Di sản Hồ Chí Minh - Những năm tháng Bác Hồ ở Huế dưới góc độ “vật thể”, là hệ thống di tích của Người để lại. Đến nay theo thống kê ở Thừa Thiên Huế có khoảng 20 di tích và địa điểm di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó có 4 di tích được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích cấp quốc gia đặc biệt: Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại đường Mai Thúc Loan (số mới 158); Trường Quốc Học Huế; Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở làng Dương Nỗ; Đình làng Dương Nỗ và 5 di tích cấp tỉnh. Về di sản “phi vật thể” có hàng ngàn tư liệu thành văn và dân gian viết về Người, nói về Người, hồi ức của chính Người về thời kỳ ở Huế và tấm lòng của Bác Hồ với Thừa Thiên Huế, Thừa Thiên Huế với Bác Hồ. Di sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và gia đình Người để lại trên mảnh đất Thừa Thiên Huế là niềm tự hào, là tài sản vô giá mà Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế có vinh dự và trách nhiệm trong việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị, nhằm góp phần từng bước đưa tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào cuộc sống, động viên mọi tầng lớp nhân dân đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, xây dựng Thừa Thiên Huế giàu về kinh tế, đẹp về văn hóa, mạnh về quốc phòng an ninh. Nguồn: Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế 1588 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Trường Quốc Học Huế

Di Tích Trường Quốc Học Huế có địa chỉ tại số 12 Lê Lợi, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trường Quốc Học Huế nay là trường trung học phổ thông chuyên Quốc Học Huế. Ngôi trường là nơi chứng kiến những tháng năm miệt mài học tập và hoạt động sôi nổi của Bác Hồ trong phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, trường Quốc Học Huế vẫn là nơi hun đúc, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và lưu giữ trong mình truyền thống, nhiệt huyết của những thiên tài cách mạng. Trường Quốc Học được thành lập theo chỉ dụ ngày 17 tháng 9 năm Thành Thái thứ 8 (23/10/1896) và Nghị định ngày 18/11/1896 của Phủ Toàn quyền Đông Dương. Đây là trường Pháp - Việt chính yếu của toàn xứ Đông Dương. Tháng 5 năm 1906 ông Nguyễn Sinh Sắc vào kinh đô Huế nhận chức Thừa biện Bộ Lễ, Nguyễn Tất Thành cùng anh trai là Nguyễn Tất Đạt theo cha vào Huế sinh sống và học tập. Được cha đưa vào học Trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba, Nguyễn Tất Thành thông minh, ham học và học giỏi. Là học sinh xuất sắc của trường, kỳ thi Primaire 1908, Thành là một trong mười học sinh giỏi nhất trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba thi vượt cấp vào học lớp đệ nhị niên trung học của trường Quốc Học niên khóa 1908 - 1909. Vào học ở trường Quốc Học, Nguyễn Tất Thành có điều kiện tiếp thu nền văn minh phương Tây sâu sắc hơn, nhưng anh cũng hiểu rõ hơn bản chất khai hoá mị dân của khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” mà thực dân Pháp đang rao giảng. Những năm đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn can ... khởi xướng đã tác động rất lớn đến nhận thức của Nguyễn Tất Thành, anh đã tham gian làm liên lạc cho các tổ chức yêu nước và vận động bạn cùng lớp ủng hộ các phong trào yêu nước. Đây là những hoạt động đánh dấu bước khởi đầu cho sự nghiệp đấu tranh yêu nước của Nguyễn Tất Thành, để từ đó anh quyết định tạm biệt mái trường Quốc Học, đi dần vào miền Nam, ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, nước nhà độc lập thống nhất, trường THPT Quốc Học thật sự trở thành ngôi trường XHCN, nơi thu hút và đào tạo học sinh năng khiếu của Thừa Thiên Huế, góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước. Năm 1990, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tưởng nhớ đến người học trò xuất sắc của trường, Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế cùng với trường Quốc Học đã xây dựng tượng anh Nguyễn Tất Thành ở ngay vị trí trung tâm của trường. Trường Quốc Học tự hào đã góp phần bồi đắp nên một nhân cách lớn, một bản lĩnh lớn, một lãnh tụ thiên tài cho dân tộc: Hồ Chí Minh. * Di tích Trường Quốc Học được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích Lịch sử cấp Quốc gia vào ngày 26/3/1990, được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích cấp Quốc gia đặc biệt vào ngày 31/12/2020. Nguồn: Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế

Thừa Thiên Huế 1788 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Núi Bà Đen

Núi Bà Đen nằm ở phía Đông Bắc thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, cách trung tâm thành phố 11km. Đây là ngọn núi cao nhất Nam Bộ (986m), nằm trong quần thể di tích lịch sử văn hóa thắng cảnh và du lịch núi Bà Đen đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Khu du lịch quốc gia. Núi Bà Đen là một danh thắng nổi tiếng được coi là biểu tượng của tỉnh Tây Ninh. Từ núi Bà Đen nhìn xuống, sẽ thấy cả một vùng đồng bằng mênh mông bao phủ ngoại ô thành phố Tây Ninh. Nhìn từ xa, núi Bà Đen khi thì hiện rõ giữa nền trời xanh, lúc ẩn trong làn sương bảng lảng. Nơi đây còn thu hút du khách bởi một quần thể kiến trúc điện, chùa, miếu, tháp… đều mang đặc trưng của văn hóa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trải khắp từ chân núi, sườn núi, lên đến đỉnh. Trên núi Bà Đen có một số ngôi chùa như: chùa Phật, chùa Hang, chùa Hạ, chùa Trung, chùa Vân Sơn… Ngoài ra, tại đây còn có nhiều động nhỏ: động Thanh Long, động Ba Cô, động Ba Tuần… Ấn tượng nhất đối với du khách có lẽ là chùa Linh Sơn Tiên Thạch, nơi thờ Bà Đen, nơi có “tiếng lành đồn xa” về sự linh thiêng của Bà Đen (trong tâm thức của người dân nơi đây luôn tin rằng bà thường linh hiển phù hộ, giúp đỡ dân chúng trong vùng những lúc mất mùa đói kém hoặc gặp chuyện oan ức). Chùa được xây dựng từ thế kỷ 18, trải qua nhiều lần trùng tu, lần mới đây nhất là khánh thành vào năm 1997. Với độ cao lên đến 986m, quanh năm đỉnh núi Bà Đen được mây mù bao phủ mờ mờ ảo ảo đẹp tựa chốn bồng lai. Hiện nay, có rất nhiều cung đường trekking đẹp với nhiều thử thách hấp dẫn du khách như đường chùa, đường cột điện, leo núi Bà Đen qua đường ống nước... Ngoài ra, còn có các con đường khác để lên đỉnh núi như: đường Ma Thiên Lãnh, đường núi Phụng và cung đường đá trắng. Nhìn chung các cung đường này khá khó đi và dễ lạc đối với những ai chưa có kinh nghiệm leo núi. Du khách có thể viếng chùa bằng cáp treo hay hệ thống máng trượt. Quá trình hành hương cũng tạo cho du khách nhiều cảm xúc khi được ngắm nhìn quang cảnh núi Bà Đen hùng vĩ với màu xanh ngút mắt, điểm xuyết những khóm hoa kiểng nên thơ giữa núi rừng xanh biếc. Trải nghiệm hệ thống cáp treo cũng mang đến cảm giác lý thú cho du khách. Tổng chiều dài 2 tuyến cáp là 3.057m với tổng số 191 cabin. Ga cáp treo Bà Đen lớn nhất thế giới với diện tích lên đến 10.959m2. Ga Chùa Hang được thiết kế độc đáo như một ngôi chùa cổ, lấy cảm hứng từ kiến trúc chùa Bà Đen và chùa Hang; điểm nhấn tượng Phật Thích ca Mâu ni ngồi thiền được thiết kế ẩn hình dọc theo hai bên tường. Ga Vân Sơn là “thế giới cổ tích Bắc Âu” thu nhỏ; cột và các mảng tường bên trong là những bức tranh lập thể đa sắc lấy cảm hứng từ kiến trúc Tòa Thánh Tây Ninh. Hàng năm, từ khoảng rằm tháng giêng đến hết tháng 3 âm lịch là dịp du khách hành hương chiêm bái, trẩy hội núi Bà Đen đông nhất. Đây là dịp để chiêm ngưỡng khoảnh khắc thiên nhiên chuyển mình vào xuân rực rỡ nhất. Du khách có thể tham gia Lễ Vía Bà Đen, trải nghiệm nghi thức tắm tượng vào mùng 5/5 âm lịch. Du khách cũng có thể lựa chọn qua đêm trên núi để trải nghiệm một Đà Lạt của miền Đông Nam Bộ; trải nghiệm rõ nhất 4 mùa xuân, hạ, thu, đông trong một ngày. Du khách sẽ cảm nhận được sự hoang sơ, tĩnh lặng của vùng Ma Thiên Lãnh, được chạm tay vào và chụp ảnh “check-in” tại cột mốc 986m, được ngắm bình minh rực rỡ trên đỉnh hay ngắm biển mây bồng bềnh. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam

Tây Ninh 1866 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tháp cổ Chót Mạt

Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt, tọa lạc ấp Xóm Tháp, xã Tân Phong, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh, được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử - văn hóa ngày 23 tháng 7 năm 1993. Đồng thời là một trong ba công trình tháp cổ cuối cùng còn lại ở miền Nam nước ta. Trải qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1938, 2003 và gần đây nhất là vào năm 2013. Mặc dù trải qua các đợt trùng tu tôn tạo, nhưng khu di tích tháp cổ Chót Mạt đã mang cho mình một diện mạo mới nhưng vẫn giữ nguyên được tinh thần kiến trúc cổ. Toàn bộ tòa Tháp được xây dựng bằng gạch và đá phiến với phần đỉnh tháp nhọn dần lên, từ mặt đất lên nơi cao nhất của đỉnh tháp được ước tính là 10m. Ngoài ra, ngọn tháp cổ này nằm trên gò đất cao giữa cánh đồng nên nhìn từ xa nó tựa như ngọn bút đang vươn lên cao dần. Năm 2003 Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh quyết định phê duyệt dự án đầu tư trùng tu tôn tạo bảo tồn di tích tháp Chót Mạt và được tiến hành triển khai trùng tu tôn tạo phục hồi, trưng bày mở hố khai quật năm 2003 đưa vào sử dụng. Ngày 27/11/2019 UBND tỉnh ban hành Quyết định Quy định về phân cấp quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Quyết định giao UBND huyện Tân Biên trực tiếp quản lý 4 di tích, trong đó có di tích cấp Quốc gia di tích Lịch sử- văn Hóa Tháp Chót Mạt. Đặc biệt Di tích Lịch sử-Văn hóa Tháp Chót Mạt trên địa bàn xã Tân Phong, huyện Tân Biên được chọn nằm trong chũi liên kết phát triển du lịch của Tỉnh Tây Ninh. Đây là một địa điểm tham quan rất đáng để khám phá, góp phần phát triển du lịch trên địa bàn xã Tân Phong nói riêng và huyện Tân Biên nói chung. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh

Tây Ninh 3458 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Tháp Cổ Bình Thạnh

Tháp cổ Bình Thạnh ở ấp Bình Phú, xã Bình Thạnh, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Tháp cổ Bình Thạnh là một trong ba kiến trúc tiêu biểu đại diện cho nền văn hóa Óc Eo còn sót lại ở Nam Bộ còn tồn tại đến ngày nay. Ngôi tháp tọa lạc ở phía hữu ngạn sông Vàm Cỏ Đông, cách trung tâm thành phố Tây Ninh khoảng 50 km về hướng Đông Nam. Đây là ngôi tháp cổ được xây dựng từ thế kỷ thứ VIII, thế kỷ IX, tính đến nay đã có niên đại hơn một nghìn năm tuổi. Tổng thể khu vực tháp cổ Bình Thạnh gồm ba tòa, nhưng duy nhất chỉ có ngôi tháp chính là vẫn giữ nguyên vẹn kiến trúc nhờ được trùng tu vào năm 1998, hai tháp khác hiện tại đã bị đổ sập chỉ còn lại phế tích trên nền móng hình vuông. Tháp cổ Bình Thạnh cùng tháp Chóp Mạt Tây Ninh được chính thức phát hiện qua tài liệu báo cáo khảo cổ học tại thư viện nghiên cứu khảo cổ Đông Dương vào đầu thế kỷ XX và được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia vào năm 1993. Tháp cổ Bình Thạnh là một minh chứng chứng kiến bao thăng trầm của lịch sử Việt Nam trong hơn 1000 năm qua. Đây là ngôi tháp duy nhất có tường đá gần như còn được nguyên vẹn kể từ lần đầu tiên phát hiện vào năm 1886, cũng là di sản kiến trúc hiếm hoi thuộc nền văn hóa Óc Eo vẫn giữ được lối thiết kế xây dựng ban đầu. Bên cạnh đó, tháp cổ Bình Thạnh còn chứa đựng được nhiều trị giá văn hóa truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng của người Phù Nam xưa. Tiêu biểu là các hoa văn, phù điêu được chạm nổi trên tháp, hầu hết là hình ảnh hoa lá cách điệu, thần linh, sinh thực khí… là những hình tượng phổ biến trong Ấn Độ giáo, đã được người dân Phù Nam thờ cúng cách đây nghìn năm. Thông qua lối kiến trúc, kỹ thuật xây dựng và điêu khắc tài tình thể hiện trên tháp cổ Bình Thạnh, đã góp phần phản ánh sự phát triển đỉnh cao của văn hóa Óc Eo thời bấy giờ. Đây là một tài liệu quý giá mà các nhà nghiên cứu không ngừng tìm tòi để phát hiện nhiều hơn các giá trị văn hóa, lịch sử đặc sắc tại khu di tích cổ này. Không những thế, sự phát hiện ra ngôi tháp cổ hơn 1000 năm tuổi càng thêm phần khẳng định vùng đất Tây Ninh từ thời cổ đại đã là đầu mối giao thương, giao lưu của nhiều nền văn hóa lớn, nơi có lịch sử lâu đời trước khi người Việt đặt chân đến Tây Ninh vào thế kỷ 17. Ngôi tháp được xây dựng trên nền đất hình vuông có tổng chiều cao là 10m và mỗi cạnh dài 5m, bốn mặt tháp được dựng theo các hướng Đông - Tây - Nam - Bắc và có một cửa chính duy nhất quay về hướng Đông. Phần cửa chính được thiết kế nhô hẳn ra phía ngoài với chiều rộng 1m và cao khoảng 2m. Phía dưới cửa chính là bậc thềm tam cấp bằng đá và phía trên có một phiến đá lớn, được chạm nổi nhiều hoa văn rất tinh xảo. Ngoài ra các mặt tường phía Tây, Nam, Bắc đều được thiết kế cửa giả và trang trí bằng những phù điêu có hoa văn cầu kỳ không kém gì phía cửa chính. Không gian bên trong tháp không lớn, chủ yếu dùng làm nơi thờ phụng Linga và Yoni - là một biểu tượng của thần Shiva trong Ấn Độ giáo. Tháp cổ Bình Thạnh mang dòng chảy lịch sử lâu đời cùng lối kiến trúc tinh xảo trong từng chi tiết… Nguồn: Du lịch Tây Ninh

Tây Ninh 1727 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Vườn Quốc gia Lò Gò - Xa Mát

Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát nằm ở số 235 Quốc lộ 22B, trực thuộc địa phận của xã Tân Bình, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát phía Bắc và Tây giáp ranh biên giới Việt Nam – Campuchia; Tên gọi của Vườn quốc gia Lò Gò Xa Mát được ghép từ hai địa điểm khác nhau thuộc tỉnh Tây Ninh là Lò Gò, Xóm Mới (nay thuộc xã Hòa Hiệp, huyện Tân Biên) và cửa khẩu Xa Mát – một trong bốn cửa ngõ quan trọng bậc nhất của tỉnh về giao lưu thương mại và khai thác tiềm năng kinh tế đối ngoại. Theo số liệu cập nhật ngày 22/12/2023, tổng diện tích của Vườn quốc gia Lò Gò Xa Mát là 30.022 ha. Vườn được chia thành 3 phân khu chính với các chức năng riêng: 1. Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt (diện tích 10.615,16 ha): Là nơi chú trọng bảo toàn nguyên vẹn các đặc điểm sinh thái vốn có của khu rừng và hệ động thực vật.Với hệ tọa độ lý tưởng và ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, khu du lịch Vườn quốc gia Lò Gò Xa Mát trở thành nơi sinh sống, di trú của nhiều loài động vật quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cao theo sách đỏ Việt Nam và thế giới. Bên cạnh các loài động vật quý hiếm, Vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát còn sở hữu khu rừng rộng lớn với gần 1000 loài thực vật, thậm chí nhiều loài đến nay vẫn chưa được phát hiện và nghiên cứu. Ban quản lý đặc biệt nghiêm cấm những hành vi khai thác tài nguyên và xây dựng công trình hạ tầng đồ sộ trong khu vực này. 2. Phân khu phục hồi sinh thái (diện tích 30.023 ha): Khu vực này đã có người dân thực hiện khoanh nuôi, trồng rừng, tái thiết diện tích rừng tự nhiên đã bị phá hoại, tăng cường bảo vệ nguồn nước và môi trường xung quanh. 3. Phân khu dịch vụ hành chính (diện tích 130,46 ha): Là nơi tập trung các khu nhà quản lý, nhà nghỉ, khu vui chơi, các tuyến đường du lịch… phục vụ khách tham quan đến nghỉ ngơi, thư giãn, đồng thời kết hợp bảo vệ thiên nhiên, tránh các tác động xấu đến đa dạng sinh học. Năm 2019 Được công nhận là Vườn di sản ASEAN Đến vườn quốc gia Lò Gò – Xa Mát, du khách không chỉ được hòa mình vào cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ mà còn được chiêm ngưỡng nhiều di tích lịch sử, văn hóa lâu đời tại đây! 1. Đài quan sát cao 32m 2. Thượng nguồn Vàm Cỏ Đông – ranh giới tự nhiên với Campuchia 3. Cột mốc 132 vốn là cột mốc đôi, trong đó Cột mốc 132 (1) thuộc quyền quản lý của Campuchia và Cột mốc 132 (2) do bộ đội biên phòng Việt Nam canh giữ. 4. Trảng Tà Nốt 5. Cây di sản vên vên 215 tuổi – cao 44 mét 6. Cây di sản dầu rái 269 tuổi – cao 42 mét 7. Nhà bia kỷ niệm Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam. Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam – “mũi nhọn” đi đầu trong công tác tư tưởng chính trị và cổ động tuyên truyền quần chúng nhân dân, góp phần làm nên đại thắng mùa xuân năm 1975. 8. Bia kỷ niệm trường Nguyễn Văn Trỗi. Năm 1965 – một năm sau ngày mất của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi, Căn cứ Trung ương Cục miền Nam thành lập ngôi trường mang tên anh, đón con em cán bộ, chiến sĩ tại khu vực miền Đông Nam Bộ về sinh sống, học tập. Trường đã tồn tại đến năm 1976 và sản sinh ra nhiều nhân tài đảm nhiệm các chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền trung ương và địa phương. Nguồn: Cục du lịch quốc gia Việt Nam

Tây Ninh 1587 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Chùa Giác Ngạn

Chùa giác Ngạn nằm trên tỉnh lộ 781, từ thị xã Tây Ninh đến huyện Châu Thành, một trong những ngôi chùa cổ ở Tây Ninh hiện còn tồn tại. Chùa thuộc ấp Bình Phong, xã Thái Bình trong một khung cảnh hoang sơ yên bình, một kiến trúc cổ kính, gần gũi với văn hoá dân gian, phảng phất nét đẹp truyền thống của Phật Giáo Việt Nam. Ngôi chùa được xây dựng trên diện tích khoảng 400m2 toạ lạc trên một khu đất rộng 1ha. Mặt trước chùa là một mặt dựng gồm 3 gian cao 8m, hai bên có thang lầu bắc lên. Trước sân là một núi đá khá đẹp và đơn giản, bên trong núi có tượng đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát. Còn có pho tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni màu trắng trang nghiêm. Bên phải chùa là nghĩa trang, nơi yên nghỉ của Phật tử quá cố. Chùa Giác Ngạn do phái Phật giáo Lục Hòa Tăng xây dựng cách đây hơn 100 năm, sau chùa Thiền Lâm, cùng thời với các chùa Phước Lâm, Cao Sơn, Long Sơn, Hạnh Lâm, Cẩm Phong. Lúc đầu chùa chỉ được xây dựng bằng vật liệu đơn sơ. Cho đến năm 1950 mới được xây dựng kiên cố theo kiến trúc hiện nay. Người sửa chữa, xây dựng lại ngôi chùa là hòa thượng Thích Giác Thiền từ núi Bà Đen đến. Sau đó là hòa thượng Thích Tịnh Hải. Từ năm 1994 đại đức Thích Huệ Thông trụ trì cho đến nay. Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, chùa Giác Ngạn từng là cơ sở an toàn của các cán bộ hoạt động cách mạng. Hiện nay thỉnh thoảng vẫn có người tìm về thăm lại ngôi chùa thân yêu ngày trước. Những ngày xuân và những ngày lễ lớn của Phật giáo như các dịp rằm tháng giêng, tháng tư, tháng bảy, chùa Giác Ngạn luôn nhộn nhịp đông vui. Tín đồ, Phật tử đến đây không chỉ có người ở tại địa phương mà còn có nhiều người từ các nơi khác. Nguồn: Phật giáo Tây Ninh

Tây Ninh 2092 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Tượng đài Chiến thắng Junction City

Địa điểm lưu niệm chiến thắng Junction City (Tân Châu, Tây Ninh) là một trong những điểm ác liệt mà Đế quốc Mỹ đã thực hiện ném bom, với ảo vọng giành thắng lợi quân sự để giải quyết cuộc chiến tranh ở miền Nam nước ta. Trong những năm 1965 -1968, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã huy động hàng vạn quân liên tiếp tổ chức 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966; 1966-1967, hòng “tìm diệt” chủ lực quân Giải phóng và hoàn thành công cuộc “Bình định” miền Nam. Nhưng trái với những toan tính của Ðế quốc Mỹ, các cuộc hành quân “tìm diệt” và “Bình định” của chúng lần lượt bị thất bại. Ðặc biệt, sau thất bại trong cuộc hành quân “tìm diệt” Attleboro (12/10/1966 - 25/11/1966) và Cedarfalls (08/01/1967 - 26/01/1967) nội bộ Chính phủ Mỹ càng phân hoá sâu sắc. Cố gắng khắc phục tình trạng này, từ ngày 22/02 - 15/4 năm 1967 Ðế quốc Mỹ đã huy động 45.000 quân, với 1.200 xe tăng, xe bọc thép, 256 khẩu pháo các loại và 160 máy bay chiến đấu cùng các loại vũ khí, hỏa lực mạnh, mở cuộc hành quân Junction City với hy vọng thực hiện chiến lược hai gọng kìm “tìm diệt và bình định” đánh vào căn cứ Bắc Tây Ninh nhằm tiêu diệt Trung ương Cục miền Nam, Sư đoàn 9 chủ lực Quân Giải phóng và Ðài Phát thanh Giải phóng, bịt chặt biên giới Campuchia, phá kho tàng dự trữ hậu cần của lực lượng cách mạng. Trong khi đó, lực lượng ta chỉ có Sư đoàn 9 Chủ lực Miền, được tăng cường Trung đoàn 16 và các lực lượng khác với phương châm bám trụ chiến đấu tại chỗ, xây dựng mạng lưới chiến tranh nhân dân trong vùng căn cứ, sẵn sàng đánh địch ở các cứ điểm, phá kho tàng, đánh phá mạnh “ấp chiến lược” để góp phần bẻ gãy cuộc phản công chiến lược của Ðế quốc Mỹ. Sau 53 ngày đêm, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 14.233 quân Mỹ, bắn rơi và phá hỏng 160 máy bay, 992 xe quân sự (có 775 xe tăng và xe thiết giáp), 112 khẩu pháo các loại, diệt 3 tiểu đoàn và 11 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn và 5 đại đội pháo, 10 chi đoàn thiết giáp Mỹ. Trong số đó, du kích và bộ đội địa phương diệt được 6.619 tên địch, 434 xe (có 425 tăng và thiết giáp), 110 máy bay và 3 khẩu pháo. Vùng căn cứ Bắc Tây Ninh được giữ vững. Thắng lợi trong chiến dịch phản công đánh bại cuộc hành quân Junction City - đỉnh cao của biện pháp chiến lược “tìm diệt” của quân đội Mỹ là một trong những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta. Bẻ gãy cuộc hành quân này, chúng ta đã bảo toàn được cơ quan đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến, giữ vững căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Bộ Chỉ huy Miền, Mặt trận Dân tộc giải phóng, bảo toàn được lực lượng cách mạng. Ðồng thời, giáng một đòn quyết định vào những cố gắng của Mỹ trong quá trình leo thang chiến tranh ở miền Nam, làm thất bại cuộc phản công chiến lược lần thứ 2, góp phần làm sụp đổ chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Với những giá trị về mặt lịch sử, quân sự, Ðịa điểm lưu niệm chiến thắng Junction City được Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch xếp hạng là Di tích Lịch sử cấp quốc gia, ngày 12/11/2013. Nguồn: Thế giới di sản

Tây Ninh 1798 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Căn cứ Trung ương Cục miền Nam

Di tích lịch sử Căn cứ Trung ương Cục miền Nam tọa lạc tại rừng Chàng Riệc, Rùm Đuôn, xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Căn cứ Trung ương Cục miền Nam ở về phía Bắc tỉnh Tây Ninh, sát biên giới Việt Nam - Campuchia. Khu di tích còn được biết tới với những tên gọi khác, như: R (mật danh của Trung ương Cục miền Nam); Căn cứ Chàng Riệc (gọi theo tên khu rừng đặt Căn cứ); Căn cứ Phạm Hùng (đồng chí Phạm Hùng từng giữ chức vụ Bí thư Trung ương Cục trong một thời gian dài); Căn cứ địa Bắc Tây Ninh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, miền Đông Nam Bộ nói chung và Tây Ninh nói riêng là địa bàn chiến lược quan trọng. Khu căn cứ địa Bắc Tây Ninh là địa bàn của cơ quan đầu não cách mạng miền Nam trong một thời gian dài và trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo cách mạng miền Nam cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Khu di tích lịch sử Căn cứ Trung ương Cục miền Nam gồm ba phân khu: Căn cứ Trung ương Cục miền Nam, Căn cứ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Căn cứ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. 1. Căn cứ Trung ương Cục miền Nam Tháng 3 năm 1951, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (khóa II) quyết định thành lập Trung ương Cục miền Nam, do đồng chí Lê Duẩn làm Bí thư, đồng chí Lê Đức Thọ làm Phó Bí thư. Sau đó, đồng chí Lê Đức Thọ được cử làm Bí thư, đồng chí Phạm Hùng làm Phó Bí thư. Ngày 6/9/1954, Bộ Chính trị quyết định giải thể Trung ương Cục miền Nam, lập lại Xứ ủy Nam Bộ và các Khu ủy. Ngày 23/01/1961, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) quyết định thành lập lại Trung ương Cục miền Nam. Đầu năm 1965, Trung ương Cục được giao nhiệm vụ chỉ đạo Nam bộ và cục Nam Trung bộ, đồng chí Nguyễn Văn Linh, Bí thư Xứ ủy Nam bộ, đảm nhận trọng trách Bí thư Trung ương Cục. Trong giai đoạn 1967 – 1975, đồng chí Phạm Hùng làm Bí thư; các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phan Văn Đáng và Hoàng Văn Thái làm Phó Bí thư Trung ương Cục. 2. Căn cứ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam Ngày 20/12/1960, tại Trảng Chiêng, xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập và cử ra Ủy ban Trung ương lâm thời. 3. Căn cứ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam Từ ngày 6 - 8/6/1969, tại rừng Tà Nốt, huyện Châu Thành (nay là huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh), Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát là Chủ tịch Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ là Chủ tịch Hội đồng Cố vấn. Di tích lịch sử Căn cứ Trung ương Cục miền Nam có giá trị đặc biệt. Trong 15 năm (1961 - 1975), Trung ương Cục đã cụ thể hóa được nhiều chủ trương, quyết sách của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng miền Nam, từ đó cho ra đời nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, quyết định đường lối chiến lược của cách mạng miền Nam và triển khai thành công trong phạm vi toàn chiến trường miền Nam. Với những giá trị đặc biệt của di tích, ngày 10/5/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử Căn cứ Trung ương Cục miền Nam là Di tích quốc gia đặc biệt. Nguồn: Cục Di sản văn hóa

Tây Ninh 1728 lượt xem

Xếp hạng : Di tích quốc gia đặc biệt Mở cửa

Di tích lịch sử Bời Lời

Căn cứ Tỉnh ủy Tây Ninh tại Bời Lời thuộc ấp Trảng Sa, xã Đôn Thuận, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nơi đây là căn cứ của Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Tây Ninh; của Phân Liên khu miền Đông, một bộ phận Xứ ủy Nam bộ thời chống Pháp và của một bộ phận Trung ương Cục thời chống Mỹ. Thành ủy Sài Gòn – Gia Định và một số cơ quan của Thành ủy Sài Gòn – Gia Định cũng đã từng đặt căn cứ tại đây. Bời Lời còn là căn cứ của Huyện ủy Trảng Bàng và Gò Dầu trong thời kỳ kháng chiến. Tuy có di chuyển nhiều nơi, nhưng Bời Lời là nơi mà Tỉnh ủy Tây Ninh có thời gian trú đóng lâu nhất. Chính nơi đây từ năm 1946 đến năm 1975 đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đặc biệt quan trọng. Nhiều hội nghị Khu ủy, tỉnh ủy đã tổ chức tại đây và ra các nghị quyết quan trọng, lãnh đạo phong trào cách mạng của quần chúng qua các giai đoạn. Suốt 15 năm ( 1960-1975) Mỹ - ngụy đã tập trung hàng trăm cuộc càn quét, rải chất độc hóa học, dùng pháo đài bay B52 rải thảm trên rừng Bời Lời hòng bao vây tiêu diệt cách mạng tại đây. Do vị trí chiến lược cực kỳ đặc biệt, Bời Lời thuộc vùng tam giác sắt ở cửa ngõ Tây Bắc Sài Gòn (Trảng Bàng – Củ Chi – Bến Cát) nên cường độ bom đạn của địch hết sức tàn khốc. Song, Tỉnh ủy và các cơ quan của Tỉnh ủy Tây Ninh vẫn bám trụ, kiên cường lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng ở Tây Ninh đi đến ngày toàn thắng. Với ý nghĩa giá trị lịch sử trên, di tích căn cứ Tỉnh ủy Tây Ninh tại Bời Lời đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia, ngày 26/01/1999. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Tây Ninh

Tây Ninh 1800 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích Chiến thắng Tua Hai

Di tích thuộc ấp Tua Hai, xã Đồng Khởi, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Tại đây, đêm 25 rạng 26/01/1960, thực hiện Nghị quyết 15 TW theo sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ, lực lượng vũ trang cách mạng cùng với nhân dân Tây Ninh đã tiến hành trận tập kích tiêu diệt căn cứ Trung đoàn 32, Sư đoàn 21 ngụy tại Tua Hai - Trận đánh mở màn phong trào đồng khởi vũ trang toàn miền Nam đã đi vào lịch sử và trở thành một di tích lịch sử cách mạng. Chiến thắng Tua Hai, mở màn phong trào đồng khởi vũ trang đi vào lịch sử và trở thành cái mốc đánh dấu sự chuyển giai đoạn cách mạng miền Nam, mở ra phương thức đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang, tạo nên thế chiến lược "hai chân, ba mũi, ba vùng". Sau chiến thắng Tua Hai, phong trào đồng khởi đã lan rộng các tỉnh miền Nam, chứng minh rằng nghị quyết 15 TW Đảng được phát ra đúng thời điểm và thời cơ. Trận đánh Tua Hai là kết quả của sự chuẩn bị lâu dài, sự tích tụ căm thù của bao hy sinh mất mát bởi quốc sách "Tố cộng diệt cộng và luật phát xít tháng 10 năm 1959 của Mỹ-Diệm đã gây cho đồng bào ta. Trận đánh Tua Hai đã làm rệu rã tinh thần của binh lính địch, chúng cho rằng những binh lính tiến công Tua Hai là "Bội đội chủ lực Bắc Việt”, đánh được Tua Hai thì Việt cộng có khó khăn gì mà không lấy được Thị xã và toàn tỉnh. Sau trận đồng khởi Tua Hai, phong trào nổi dậy của quần chúng, các lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng ra đời với những trận đánh có hiệu xuất cao, tiêu diệt được nhiều địch. Trận đánh Tua Hai đêm 25 rạng 26/01/1960 ở Tây Ninh trận đánh lớn diệt trên 500 tên địch, thu 1.500 súng các loại, phát huy chiến thắng Tua Hai, nhân dân Tây Ninh đã nổi dậy đồng loạt giải phóng hai phần ba số xã trong tỉnh. Với giá trị lịch sử đó. Địa điểm chiến thắng Tua Hai được Bộ Văn Hoá Thông Tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa ngày 23/7/1993. Nguồn: Báo Tây Ninh

Tây Ninh 1745 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Đền thờ Nàng Han

Đền thờ Nàng Han nằm ở bản Tây An thuộc xã Mường So và bản Phai Cát, xã Khổng Lào, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Đây là một địa điểm thờ cúng nhân vật trong truyền thuyết được Nhân dân gọi là Nàng Han (Nàng có nghĩa là con gái, Han có nghĩa là anh hùng). Tương truyền, Nàng Han xuất thân trong một gia đình người Thái nghèo ở Chiềng Sa (nay là xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu). Nàng đã cải trang thành nam giới, đứng lên kêu gọi thanh niên trai tráng các bản đoàn kết đánh giặc. Nàng đứng đầu cuộc khởi nghĩa của đồng bào 16 xứ Thái quật cường đánh bại giặc xâm lược phương Bắc. Sau khi dẫn đoàn quân thắng trận trở về, nàng tắm gội ở mó nước Tây An (xã Mường So) rồi bay lên trời. Từ đó, nhớ công ơn của nàng, bà con lập đền thờ và tổ chức lễ hội ngay ở mó nước nàng tắm. Nàng Han không chỉ là nhân vật được thờ phụng của người dân ở xã Mường So hay địa bàn tỉnh Lai Châu nói riêng mà Nàng Han là nhân vật thờ phụng của tất cả đồng bào dân tộc Thái Trắng trên cả khu vực Tây Bắc. Nàng Han trong tâm linh 16 xứ Thái, xứ Mường ở Tây Bắc giống như Bà Trưng, Bà Triệu đối với người Kinh. Ngày 25-12-2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu công nhận Đền thờ Nàng Han là Di tích lịch sử văn hoá, kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu

Lai Châu 1698 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đồn Mường Bum

Đồn Mường Bum được Thực dân Pháp thiết kế dựa trên địa thế hiểm trở, xây dựng kiên cố từ năm 1917 và có chiến lược lâu dài với một khu vực rộng nằm trên đỉnh đồi thuộc bản Bum, xã Bum Nưa (nay thuộc thị trấn Mường Tè). Với tổng diện tích 2.592m2, chiều dài là 72m, chiều rộng 36m, được chia làm ba cấp theo chiều dài xung quanh được bao bọc bởi các bức tường thành kiên cố, bốn góc quan sát quan trọng được dựng bốn lô cốt phòng thủ. Hệ thống phòng thủ được chia làm ba cụm hoả lực chính, trong đó có các lỗ châu mai, hệ thống đồn được bao bọc bởi các bức tường thành kiên cố, phía trước có cổng chính, phía sau có cổng phụ, phía giáp với suối Nậm Xỳ Lường còn một cổng dùng cho việc rút lui khi bị tấn công và tiếp tế lương thực, quân chi viện theo đường thuỷ. Khi có báo động tất cả các cánh cổng được đóng lại, hệ thống đồn được khép kín hoàn toàn và được đưa vào trạng thái sẵn sàng chiền đấu. Đồn Mường Bum không chỉ là hoạt động quân sự mà trong đồn là cả một hệ thống, một tổng thể kiến trúc gồm hệ thống phòng thủ, căn cứ, tăng gia sản xuất được tính toán và có chiến lược lâu dài. Nơi đây đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của địa phương như cuộc chiến chống Phỉ (tàn quân của Thực dân Pháp và bọn tay sai phản động(tháng 12/1953 – 1954)… Đồn Mường Bum được UBND tỉnh Lai Châu xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh ngày 25/4/2011. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu

Lai Châu 1478 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích nơi giam cố luật sư – chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ

Di tích nơi giam cố luật sư – chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ Được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh ngày 23 tháng 8 năm 2012 . Di tích nằm trên địa phận Bản Giang – xã Mường Tè – huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Trước đây thực dân Pháp đã giam lỏng cố luật sư Nguyễn Hũu Thọ. Nhân dân địa phương đã dựng một ngôi nhà sàn gỗ để Nguyễn Hữu Thọ sinh sống.Vào tháng 6 năm 1950 thực dân Pháp cho máy bay chở Luật sư ra thị xã Sơn La từ Sơn La, ô tô chở Luật sư theo đường số 6 đến Lai Châu. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910. Năm 1930 ông học Luật tại Pháp và trở về nước năm 1933. Năm 1948 ông tham gia mặt trận liên Việt, năm 1949 được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Ông hoạt động trong phong trào trí thức yêu nước, bị thực dân Pháp bắt tháng 6 năm 1950 và bị giam tại Lai Châu (ở bản Giang, Xã Mường Tè, Huyện Mường Tè, Tỉnh Lai Châu ngày nay), sau đó ông bị luân chuyển về Sơn Tây cho đến tháng 11 năm 1952. Cuối tháng 11 năm 1961 Luật sư Nguyễn Hữu Thọ về Tây Ninh. Tháng 2 năm 1962 Đại hội lần thứ nhất mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tổ chức ông được bầu làm Chủ tịch. Tháng 6 năm 1969 chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được thành lập ông giữ chức chủ tịch hội đồng cố vấn. Năm 1976 ông được bầu phó Chủ tịch nước Việt Nam thống nhất. Tháng 4 năm 1980 sau khi chủ tịch nước Tôn Đức Thắng qua đời, ông làm Quyền chủ tịch nước đên tháng 7 năm 1981. Năm 1981 đến năm 1987 ông là Chủ tịch Quốc hội nước Việt Nam. Ông được tặng thưởng “Huân Chương Sao Vàng” năm 1993. Ông qua đời tại thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 24 tháng 12 năm 1996. Qua đó ta có thấy được rằng luật sư – Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ có cuộc đời, sự nghiệp của một trí thức yêu nước tài năng, là tấm gương đạo đức cao đẹp và những cống hiến trọn đời cho tổ quốc, cho dân. Ông là con người tiêu biểu của tình đoàn kết dân tộc, là một nhà lãnh đạo tài năng, một tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng. Ngày 8/12/2012 UBND tỉnh Lai Châu cũng đã cắt băng khánh thành Nhà lưu niệm (nơi lưu giữ một số hình ảnh về Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) - của Trường Tiểu học mang tên Nguyễn Hữu Thọ tại xã Mường Tè - Huyện Mường Tè. Nguồn: Du lịch Lai Châu

Lai Châu 1413 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Động Tiên Sơn

Động Tiên Sơn (tên gọi khác là động Đán Đón, Pờ Ngài Tủng, động Đá Trắng, động Bình Lư) nằm kề quốc lộ 4D, thuộc địa phận xã Bình Lư, huyện Tam Đường. Động Tiên Sơn với các hang động nằm trong quần thể danh thắng gắn liền với truyền thuyết về 99 ngọn núi, 99 hồ nước của đồng bào dân tộc Lai Châu - đã trở thành nét đẹp riêng mà ít nơi nào có được. Truyền thuyết về động Tiên Sơn đã được dân gian lưu truyền qua nhiều thế hệ: 99 ngọn núi chính là biểu tượng của 99 chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, còn 99 hồ nước trong xanh chính là 99 người con gái cần cù, xinh đẹp. Những ngọn núi và hồ nước nối tiếp nhau tạo nên bức tường thành ôm giữ một vùng đất đai trù phú, phì nhiêu. Cảnh đẹp và con người nơi đây trở thành nguồn cảm hứng cho ra đời những lời ca tuyệt vời “chín mươi chín ngọn núi chàng trai, chín mươi chín hồ xanh cô gái”... Động Tiên Sơn có 49 cung nối tiếp nhau chạy dài thông qua hai sườn núi, càng vào sâu bên trong, diện tích các cung càng lớn. Trong động có nhiều thạch nhũ muôn hình muôn vẻ, màu sắc huyền ảo. Dưới lòng động có dòng suối trong vắt chảy qua, luồn lách qua các cung như: Cung công danh, Lạc Long Quân, Mẫu Âu Cơ, Bà Chúa Kho, giải oan, xin con. Tiên Sơn là hang động thiên tạo đẹp nổi tiếng trong vùng còn giữ được vẻ hoang sơ. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp nơi đây còn là nơi cất giấu lương thực và là căn cứ địa của phong trào cách mạng. Năm 1996, Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận động Tiên Sơn là Di tích lịch sử văn hóa - Danh lam thắng cảnh cấp quốc Gia. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu

Lai Châu 1823 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Khu Di Tích Lịch Sử Bản Lướt

Di tích Bản Lướt xã Mường Kim là nơi Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu ra đời thông qua Nghị quyết của Liên khu ủy 10 về thành lập Chi bộ Đảng Lai Châu. Đây chính là tiền thân của Đảng bộ tỉnh Lai Châu ngày nay. Ngày 10/10/1949, Ban Thường vụ Liên khu uỷ 10 thành lập Ban Cán sự Đảng Lai Châu gồm 3 đồng chí: Nguyễn Bá Lạc (Bí danh Trần Quốc Mạnh) - Tỉnh uỷ viên Tỉnh uỷ Yên Bái làm Trường ban, đồng chí Hoàng Đông Tùng - Đội trưởng đội xung phong Lai Châu và đồng chí Tạ Nhật Tựu (Bí danh Hoàng Hoa Thưởng) - Thường vụ Huyện uỷ huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc) được điều lên Lai Châu làm Uỷ viên. Tháng 11/1949, đoàn Ban Cán sự Đảng Lai Châu do đồng chí Trần Quốc Mạnh và Hoàng Hoa Thưởng phụ trách, đã đến Than Uyên và quyết định chọn Bản Lướt, xã Mường Kim (Than Uyên) làm căn cứ hoạt động để tiến vào Lai Châu. Ngày 02/12/1949, Ban Cán sự Lai Châu triệu tập hội nghị công bố quyết định của Liên Khu uỷ 10 về việc thành lập Chi bộ Lai Châu gồm 20 đồng chí, đồng chí Trần Quốc Mạnh làm Bí thư. Đây là sự kiện quan trọng trong lịch sử cách mạng Lai Châu, đánh dấu sự ra đời của chi bộ đảng đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Lai Châu. Bản Lướt nằm trên đồi Noong Nanh thuộc bản Lướt, xã Mường Kim, huyện Than Uyên, cách thị trấn Than Uyên 4km về phía nam và cách thành phố Lai Châu 100km về hướng đông nam theo quốc lộ 4D và quốc lộ 32. Khu di tích được đầu tư xây dựng bia tưởng niệm và vòng quanh khuôn viên của bản. Tháng 10 năm 2003 huyện Than Uyên vinh dự được nhà nước trao tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Di tích Bản Lướt được tỉnh công nhận năm 2009 là di tích lịch sử cách mạng. Nguồn: Tỉnh đoàn Lai Châu

Lai Châu 1637 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Hang kháng chiến Nà Củng

“ Hang Nà Củng” nằm ở bản Nà Củng thuộc xã Mường So - huyện Phong Thổ - tỉnh Lai Châu. Trước khi chia tách tỉnh năm 2004 thì Hang Nà Củng thuộc Bản Nà Củng - xã Mường So - huyện Tam Đường - Tỉnh Lai Châu (cũ). Di tích nằm trên đỉnh của một ngọn núi thấp, phía dưới là cánh đồng Tùng So sải cánh cò bay và con suối Nậm So trước cửa hang để rồi đổ ra dòng Nậm Na. Đứng trước cửa hang có thể nhìn thấy dòng suối nước chảy mềm mại như một chiếc khăn tay màu trắng của một thiếu nữ thiết tha trong gió. Hoà quyện vào đó là cánh đồng Tùng So với muôn vàn ô thửa, hứa hẹn những mùa bội thu, đời sống nhân dân trên địa bàn ấm no, hạnh phúc. Điểm xuất phát từ Thị xã Lai Châu chúng ta dọc theo đường quốc lộ 4D với con đường đã được dải nhựa bằng phẳng, uốn lượn theo các vòng cua của sườn núi hùng vĩ, trên đường đi du khách đã thưởng ngoạn trước cảnh đẹp thiên nhiên kỳ thú của núi rừng mang đậm tính đặc thù trên vùng đất Tây Bắc. Với độ dài 23km chúng ta sẽ tới được ngã ba Phong Thổ có độ dài 7km, còn một chặng đường đi vào thị tứ Mường So (từ ngã ba này vào trung tâm xã khoảng 3 km đường trải nhựa bằng phẳng). Khi qua UBND xã Mường So chúng ta tới khu chợ trung tâm, tại đây không khí thật náo nhiệt. Dòng người từ nhiều nơi tụ họp về để mua bán trao đổi sản phẩm phục vụ cuộc sống. Không khí và nhịp sống tại đây đã làm cho chúng ta được thay đổi chút náo nhiệt của xã hội. Khi đi qua cây cầu bê tông cốt thép bắc qua dòng sông Nậm Lùm (cầu chợ hay còn gọi là cầu Nang Pôông). Chúng ta tiếp tục dọc theo đường trục chính khoảng 1km sẽ tới ngã ba rẽ vào bản Nà Củng. Với con đường mộc mạc, mang tính nguyên sơ của cộng đồng, du khách sẽ có một cảm giác mới lạ như tách ra khỏi thế giới náo nhiệt để trở về một vùng quê yên bình. Với bờ suối, cánh đồng và muôn vàn cảnh vật bất cứ ai cũng cảm thấy nhỏ bé đi rất nhiều. khi du khách tới cầu treo bắc qua suối Nậm So lúc đó là lúc du khách tiếp cận được với văn hoá sinh hoạt cộng đồng dân cư Thái Trắng nơi đây. Có thể nói, bản Nà Củng là một trong những bản đầu tiên của người Thái Trắng trong cả khu vực, đây là một trong những cái nôi về văn hoá, cách mạng và phong tục tập quán. Với những ngôi nhà sàn truyền thống san sát, với dãnh nước chảy dọc khắp bản…Tất cả những điều đó đã bổ trợ thêm, làm sinh động thêm cảnh sắc thiên nhiên tuyệt vời trong đời sống văn hoá đa dạng. Khi đi hết con đường đất chạy dọc bản du khách sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi trước mắt mình mở ra một cảnh tượng hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc trùng điệp, với núi liền núi, sông suối, cánh đồng kết hợp với nhau tạo thành một thể thống nhất, một bức tranh nhiều màu vô giá của tự nhiên. Chính tại đây du khách đã đến được với di tích Lịch sử văn hoá và Danh lam thắng cảnh Hang Kháng chiến Nà Củng. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu

Lai Châu 1659 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Đồn Mường Tè

Đồn Mường Tè được công nhận là di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh ngày 31 tháng 12 năm 2008. Di tích nằm trên đồi “Phụ độn” tức là núi đồn thuộc bản Nậm Củm – xã Mường Tè - Huyện Mường Tè - tỉnh Lai Châu. Được xây dựng trên đỉnh của ngọn đồi khá cao và hiểm trở, nằm giữa ngã ba của suèi Nậm Củm và sông Đà rất thuận tiện cho việc quan sát bốn phía và lối thoát ra sông Đà sang Mù Cả khi bị tấn công. Tháng tư năm 1980 thực dân Pháp chiếm xong toàn bộ tỉnh Lai Châu sau khi lần lượt dập tắt các phong trào khởi nghĩa của nhân dân thực dân Pháp bắt tay vào việc xây dựng bộ máy thống trị bằng nhiều âm mưu thủ đoạn thâm độc, nhiều người ở các Châu, Mêng đã làm tay sai cho thực dân Pháp. Ngày 27/3/1916 thực dân Pháp thành lập đạo quan binh thứ 4 Lai Châu gồm: Lai Châu, Châu Quỳnh Nhai, sở Đại lý và Châu Điện Biên; các khu biên giới phía Bắc gồm: Mường Tè, Mường Nhé, Mường Bum (Mường Tè), Mao Xà Phìn (Sìn Hồ). Theo Nghị định số: 2016 ngày 6 tháng 9 năm 1917 của toàn quyền Đông Dương, các đồn ở A Pa Chải và Mường Tè được thành lập do người Pháp chỉ huy và người địa phương có nhiệm vụ canh giữ để đảm bảo an ninh cho vùng biên giới phía Bắc. Đến năm 1929 thống sứ Bắc Kỳ cho phép tập hợp ba khu biên giới: Mường Tè, Mường Nhé, Mường Bum thành một tập đoàn hành chính đặt dưới sự kiểm soát của một viên trung uý người Pháp chỉ huy ở cứ điểm đồn Mường Tè, từ đó người dân địa phương thường gọi đây là đồn Mường Tè. Nguồn: Sở Văn Hóa, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Lai Châu

Lai Châu 1523 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Di tích Lịch sử Bia Lê Thái Tổ (Lê Lợi)

Quần thể đền thờ vua Lê Thái Tổ và bia vua Lê Thái Tổ nằm cách trung tâm thành phố Lai Châu 110km về phía Tây Nam, thuộc địa phận hành chính của xã Lê Lợi và xã Pú Đao, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu. Đền thờ được dựng lên để tưởng nhớ công lao của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, người đã có công dẹp loạn vùng Tây Bắc. Ngôi đền tọa lạc trên vị trí đắc địa, cao ráo, có thể phóng tầm mắt 4 phía. Tại quần thể đền thờ Vua Lê còn có một di tích quý báu đó là di tích bia Lê Lợi. Tháng Chạp năm Tân Hợi (1431), vua Lê Thái Tổ đã cho tạc khắc vào vách đá Pú Huổi Chỏ bên bờ bắc sông Đà để lưu lại cho muôn đời sau, sử cũ gọi là “Bia cổ hoài lai”. Văn bia ghi lại sự kiện lịch sử vua Lê Thái Tổ thân chinh chỉ huy các đạo quân dẹp phản loạn ở vùng Tây Bắc của Tổ quốc. Đó là sự kiện năm 1431, tù trưởng Đèo Cát Hãn làm phản, liên kết với Kha Đốn (còn gọi là Kha Lại) - một bầy tôi phản nghịch của Ai Lao (nước Lào) quấy nhiễu Nhân dân nơi biên ải, đánh chiếm vùng đất Mường Muỗi (nay là vùng Thuận Châu - Sơn La ngày nay). Do hành động phản nghịch của Đèo Cát Hãn, vua Lê Thái Tổ đã phái Quốc vương Tư Tề và quan Tư khấu Lê Sát đem quân tiến đánh. Sau đó, vua Lê Thái Tổ thân chinh đem quân lên châu Phục Lễ (châu Ninh Viễn). Đại quân của triều đình tiến theo đường từ sông Hồng, rồi ngược sông Đà, bằng đường thủy và đường bộ, đánh tan quân phản nghịch Đèo Cát Hãn. Khi quân của nhà vua tiến đến sào huyệt của Đèo Cát Hãn, Kha Lại và Đèo Cát Hãn bỏ trốn, sau đó Nhân dân bắt được Kha Lại và giết chết. Tháng Chạp năm Tân Hợi - 1431, sau khi bình định vùng Tây Bắc, trên đường quay trở về qua địa phận xã Lê Lợi, huyện Nậm Nhùn (hiện nay), để ghi nhớ sự kiện trọng đại này đồng thời răn dạy các tù trưởng cai quản nơi biên cương của Tổ quốc, vua Lê Thái Tổ đã cho khắc 1 bài thơ vào vách đá . Tấm bia khắc bài thơ của vua Lê Thái Tổ còn lại cho đến ngày nay là một di sản văn hóa cực kỳ quý báu. Tấm bia đá hay đúng hơn là một trang vàng lịch sử chống giặc ngoại xâm cùng những tên tù trưởng tham lam, câu kết với ngoại bang để chống lại Nhà nước phong kiến Việt Nam lúc đó. Năm 2005, Nhà máy thủy điện Sơn La khởi công. Để tránh bị ngập nước, phần bút tích văn bia của vua Lê Thái Tổ đã được di dời. Bút tích sau khi được khoan cắt ra thành một khối đá lớn có kích thước dài 2,62m, rộng 1,13m, cao 1,85m, trọng lượng trên 15 tấn. Năm 2012, bia Lê Lợi được di dời khỏi vách đá Pú Huổi Chỏ đến khuôn viên đền thờ vua Lê Thái Tổ cách vị trí cũ 500m. Di tích Bia Lê Lợi đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 02-9-1981. Cuối 2016, Bia Lê Lợi chính thức được công nhận là Bảo vật quốc gia. Đầu năm 2017, Đền thờ vua Lê Lợi cũng được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia ngày 23-01-2017. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu

Lai Châu 1684 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Di tích khảo cổ Nậm Tun

Di chỉ khảo cổ Nậm Tun được khai quật trong hang Nậm Tun, địa phận bản Phiêng Đanh, xã Mường So, huyện Phong Thổ nay là thị xã Phong Thổ, tỉnh Lai Châu. Trước năm 1945, hang Nậm Tun có tên gọi là Thẳm Hộ Khoại - nghĩa là Hang Dào trâu. Di tích khảo cổ học Nậm Tun khai quật năm 1973, tầng văn hoá dày 1,8 m có hai lớp. Lớp trên có mặt rìu đá mài, đồ gốm và 3 mộ (còn giữ lại được di cốt) đặc trưng cho hậu kì đá mới. Lớp dưới đã tìm thấy gần 200 công cụ cuội ghè đẽo thô sơ, kích thước lớn, trên 700 mảnh tước và 2 mộ đặc trưng cho hậu kì đá cũ, tiêu biểu cho di tích khảo cổ hang động cổ xưa nhất ở Tây Bắc, thuộc văn hoá Sơn Vi. Di chỉ hang Nậm Tun là nơi cư trú, mai táng và chế tác công cụ của 2 lớp người, có 2 tầng văn hóa, giai đoạn trước và giai đoạn hậu kỳ thời đại Đá mới. Ở hang Nậm Tun có 5 ngôi mộ cổ và nhiều di vật cổ, đặc biệt là mũi dùi bằng xương, lần đầu tiên tìm thấy ở Việt Nam. Hang Nậm Tun ở vào vị trí khá thuận lợi. Cửa hang nhìn về phía Tây. Trước hang là một dòng suối lớn, ngày nay người dân nơi đây quen gọi là làng Nậm Phé (Nậm Phé cách cửa hang không quá 100 m). Về mùa nước lũ, dòng suối dâng lên ngập cả thung lũng bao quanh hang. Thung lũng ngày nay quang đãng hơn, từ đó mọc lên những bản làng của người Hoa và người Thái sống xen kẽ. Hang Nậm Tun có cấu tạo rất phức tạp. Có chỗ thạch nhũ phủ dày. Có chỗ thạch nhũ chỉ mới tráng thành lớp mỏng. Lớp này dày trong khoảng 0,15m đến 0,20m. Tại đây tìm thấy di tích văn hoá của nhiều thời đại khác nhau. Những chiếc rìu mài toàn thân, những mảnh gốm tuy thô ráp song đã chế tạo bằng bàn xoay, có trang trí hoa văn khắc vạch, hoa văn thừng…, một khuôn đúc hai mang bằng đá, một hạt cườm xanh bằng ngọc bích- tất cả nếu sớm nhất cũng thuộc vào giai đoạn hậu kì thời đại đá mới. Qua lớp cuội to, là lớp đất có màu nâu sẫm, lẫn nhiều sỏi. Ở đây tìm thấy nhiều công cụ cuội ghè đẽo thô sơ, có trọng lượng và kích thước khác nhau, chưa có hình dáng ổn định, tìm thấy nhiều mảnh tước to, sản phẩm của quá trình chế tác công cụ bằng phương pháp ghè đẽo trực tiếp. Di tích khảo cổ hang Nậm Tun được xếp hạng Di tích lịch sử khảo cổ Quốc gia ngày 07/02/2013. Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu

Lai Châu 1833 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Dinh thự Đèo Văn Long

Dinh thự Đèo Văn Long nằm trên địa phận xã Lê Lợi, huyện Sìn Hồ, Tỉnh Lai Châu. Theo kết quả khảo sát năm 1983 của Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Lai Châu thì công trình này được bắt đầu xây dựng từ năm 1916. Các tư liệu để lại về dinh thự và gia tộc họ Đèo tuy còn rất sơ khai, nhưng đều cho rằng tất cả các công việc chọn hướng, chọn vị trí đặt cổng chính, miếu thờ, nhà Đẳm (nhà thờ tổ tiên) đều được gia tộc họ Đèo thuê thầy địa lí xem xét cẩn thận. Hai kiến trúc sư một người Pháp, một người Trung Quốc được mời về để thiết kế và giám sát, vật liệu được đưa lên từ các tỉnh miền xuôi. Vì vậy, kiến trúc khu dinh thự mang đường nét phương Tây hòa quyện dáng dấp phương Đông, đồng thời là đặc trưng của nghệ thuật xây dựng và phong thuỷ của người Thái. Dinh thự có diện tích chừng hơn 1ha, do nhu cầu phòng thủ, đón tiếp các quan chức Chính phủ Đông Dương và để thoả mãn lối sống xa hoa của mình, họ Đèo đã tập trung dân phu, binh lực, thợ thuyền cho việc xây dựng quần thể dinh thự, đặt tại một vị trí hiểm yếu, nằm ở ngã ba nơi gặp nhau của con sông Đà, sông Nậm Na và suối Nậm Lay. Còn sau lưng dinh thự là núi cao, trước mặt là ngã ba sông (sông Đà, sông Nậm Na và suối Nậm Lay) có thể khống chế được con đường lên Phong Thổ, Mường Tè và xuôi về Hòa Bình, Sơn La, cũng như qua ngả Điện Biên sang Lào, địa thế hợp cho việc phòng thủ và chống lại quân địch, nếu thất bại có thể rút lui an toàn. Năm 1918, khu dinh thự đã hoàn thành với 8 đơn nguyên chính là: Cổng chính, nhà Đẳm, nhà ăn, nhà xoè, tháp nước, hầm nhốt phạm nhân, miếu thờ ma rừng và một nhà nữa có mặt hình chữ L (chưa rõ mục đích sử dụng). Ngoài ra, còn một số công trình bổ trợ khác như tường bao, cổng phụ, đường xe dẫn lên cổng chính, bậc thềm dài và hẹp dẫn xuống hầm nhốt phạm nhân, kho thóc, bến thuyền, nghĩa địa. Khu nhà chính được xây hai tầng bằng gạch đỏ, sàn gỗ, mái lợp ngói được tách ra từ những phiến đá, thường được gọi là đá đen (lúc mới tách đá mềm có thể dùng dao cắt được, nhưng khi gặp nắng đá sẽ cứng như sành). Xung quanh lâu đài là bức tường thành cao trên 3m, được xây bằng đá phiến dày 40 đến 50cm, rất vững chãi, trên tường có nhiều lỗ châu mai quan sát phía bên ngoài. Trước khu nhà chính có khoảng sân rộng để múa xoè khi Đèo Văn Long tổ chức tiệc tùng, tiếp khách. Có thể nói quần thể dinh thự là một “pháo đài bất khả xâm phạm” của vua Thái. Nói đến Đèo Văn Long là con thứ của Đèo Văn Trị và là một lãnh chúa của Khu tự trị Thái ở Liên bang Đông Dương. Gia đình họ Đèo vốn xuất thân từ một dòng dõi quý tộc tại Vân Nam (Trung Quốc), họ không phải những người phản động mà đã cùng nhau chung sống hòa thuận trên mảnh đất Lai Châu từ rất lâu. Những năm cuối thế kỉ XIX, hưởng ứng phong trào Cần Vương, dòng họ Đèo đã sát cánh cùng nghĩa quân Cờ Đen trấn giữ Sơn Tây và lập được nhiều chiến công. Thế nhưng sau những tổn thất khá lớn ở trận quyết chiến cùng sự nghi kị, thiếu thống nhất trong nội bộ, Đèo Văn Trị đã kí vào bản hiệp ước ngừng bắn vĩnh viễn với quân Pháp. Được Chính phủ Pháp bảo hộ, hậu thuẫn về tiền bạc và vũ khí, Pháp khôi phục cho Đèo Văn Trị cai quản vùng đất Sipsong Chuthai (12 xứ thái). Năm 1908, Đèo Văn Trị mất, trao lại quyền binh cho con là Đèo Văn Kháng, sau đó Kháng chết, Đèo Văn Long thay anh trai lên nắm quyền. Từ đây, với bản chất là kẻ tàn bạo, Đèo Văn Long gieo rắc bao nỗi khiếp sợ cho Nhân dân trong vùng. Ngoài việc cho quân lính đi cướp bóc vơ vét của cải của Nhân dân trong vùng, vua Thái còn đóng những chiếc thuyền lớn, lấy sông Đà làm trục giao thông chính chở lâm thổ sản mà hắn đã cướp được của Nhân dân địa phương mang xuống miền xuôi bán như: thuốc phiện, da hổ, da báo, mật gấu,… sau đó chở hàng hóa lên bán cho người dân địa phương. Sau giải phóng thị trấn Lai Châu (1952), Đèo Văn Long chạy sang Pháp lưu vong, dinh thự bị người dân phá hủy. Đến nay toàn bộ khu dinh thự đã trở thành phế tích, nhiều công trình bị mất hoàn toàn không thể xác định được hình dáng kiến trúc ban đầu. Năm 1980, dinh thự Đèo Văn Long được UBND tỉnh Lai Châu ra quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh và nằm trong kế hoạch phục dựng. Tuy nhiên từ năm 2010, công trình thủy điện Sơn La tích nước, một phần khu dinh thự của Đèo Văn Long bị chìm vĩnh viễn xuống lòng sông chỉ còn lại một ít phế tích. Nguồn: Báo Lai Châu

Lai Châu 1656 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp tỉnh Mở cửa

Ngã ba Đông Dương

Ngã ba Đông Dương không chỉ nổi tiếng trong kháng chiến chống Mỹ mà nơi này ngày nay đang trở nên rất hấp dẫn du khách trên hành trình thăm Kon Tum - cực bắc Tây Nguyên Việt Nam. Địa danh ngã ba Đông Dương trên dãy Trường Sơn hùng vỹ luôn nằm trong ký ức lớp bộ đội, thanh niên xung phong trên đường vào chiến trường miền Nam, chiến trường C (Lào), chiến trường K (Campuchia) trong những năm tháng chiến tranh không thể nào quên. Đây là vùng đất được mệnh danh là một tiếng gà gáy cả ba nước cùng nghe. Nay vùng đất này đang trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Nơi các địa danh đã đi vào lịch sử như ngã ba Đông Dương (nơi đường Trường Sơn Tây gặp đường Trường Sơn Đông thời kháng chiến ), di tích lịch sử chiến thắng Đắc Tô - Tân Cảnh tháng 4/1972; cột mốc biên giới do ba nước anh em Việt Nam - Lào - Campuchia cùng thống nhất xây dựng trên đỉnh núi cao hơn 1.000m so với mặt nước biển, cách thị trấn Playku khoảng 30 km. Cột mốc này do tỉnh Kon Tum tổ chức thi công xây dựng tháng 12/2007 dưới sự giám sát của chuyên gia ba nước có chung đường biên giới. Đại diện Bộ Ngoại giao ba nước cùng làm lễ khánh thành trọng thể vào ngày 18/1/2008. Cột mốc đặc biệt nặng 900 kg , làm bằng đá hoa cương hình trụ tam giác, cao 2 mét, trên mỗi mặt cột mốc quay về mỗi nước được gắn quốc huy, năm cắm mốc và tên quốc gia đó bằng chữ màu đỏ của chính nước đó. Đây là cột mốc thứ hai cùng ghi danh cả ba quốc gia được cắm trên mảnh đất Việt Nam. Cột mốc thứ nhất là của ba nước Việt Nam - Lào - Trung Quốc thống nhất xây dựng ở A Pa Chải (Điện Biên). Từ cột mốc ngã ba biên giới, du khách có cơ hội ngắm nhìn toàn cảnh vùng đất ngã ba Đông Dương. Cũng tại đây, du khách muốn thăm hai nước Lào và Campuchia có thể làm thủ tục xuất cảnh tại đồn biên phòng Việt Nam ở cửa khẩu quốc tế Bờ Y. Nguồn: Du lịch Kon Tum

Kon Tum 1512 lượt xem

Xếp hạng : Di tích cấp quốc gia Mở cửa

Điểm di tích nổi bật